kimluc
Hiển thị các bài đăng có nhãn Phật Giáo. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Phật Giáo. Hiển thị tất cả bài đăng

Mùa Vu Lan: hãy đến ngôi chùa cổ linh thiêng lọt top 20 ngôi chùa đẹp nhất thế giới

Chùa Trấn Quốc ban đầu có tên là chùa Khai Quốc, xây dựng vào thời Tiền Lý (541-547). Với hơn 1.500 năm tuổi, chùa Trấn Quốc được xem là một trong những ngôi chùa cổ nhất Việt Nam. Nằm trên hòn đảo nhỏ giữa hồ Tây, thuộc quận Tây Hồ, nơi đây thu hút du khách bởi nét kiến trúc cổ kính và cảnh quan đầy màu xanh, tạo không gian thoáng đãng, mát mẻ.


Là một ngôi chùa cổ được xây dựng từ lâu, chùa Trấn Quốc đã trải qua rất nhiều lần trùng tu, diện mạo có phần thay đổi, quy mô và kiến trúc của chùa hiện giờ là kết quả của một đợt trùng tu lớn năm 1815. Tổng diện tích chùa khoảng hơn 3000m2, bao gồm vườn tháp, nhà tổ và thượng điện.

Cảnh quan cuốn hút cũng từng góp phần đưa Trấn Quốc vào danh sách 16 ngôi chùa đẹp nhất thế giới năm 2017. Khuôn viên chùa nổi bật và thu hút du khách nhất là bảo tháp lục độ đài sen gồm 11 tầng, cao 15 m, được xây dựng năm 1998.

Giống hầu hết những ngôi chùa khác ở Việt Nam, kết cấu và nội thất chùa Trấn Quốc có sự sắp xếp trình tự và theo nguyên tắc khắt khe của Phật giáo. Gồm nhiều lớp nhà với ba ngôi chính là Tiền đường, nhà thiêu hương và thượng điện nối thành hình chữ Công (工).

Tiền đường hướng về phía Tây. Hai bên nhà thiêu hương và thượng điện là hai dãy hành lang. Sau thượng điện là gác chuông. Gác chuông chùa là một ngôi ba gian, mái chồng diêm, nằm trên trục sảnh đường chính.

Bên phải là nhà tổ và bên trái là nhà bia. Trong chùa hiện nay đang lưu giữ 14 tấm bia. Trên bia khắc năm 1815 có bài văn của tiến sĩ Phạm Quý Thích ghi lại việc tu sửa lại chùa sau một thời gian dài đổ nát. Công việc này bắt đầu vào năm 1813 và kết thúc vào năm 1815. Phía sau chùa có một số mộ tháp cổ từ đời Vĩnh Hựu và Cảnh Hưng (thế kỉ 18).

Khuôn viên chùa có Bảo tháp lục độ đài sen được xây dựng năm 1998. Bảo tháp lớn gồm 11 tầng, cao 15m. Mỗi tầng tháp có 6 ô cửa hình vòm, trong mỗi ô đặt một pho tượng Phật A Di Đà bằng đá quý. Đỉnh tháp có đài sen chín tầng (được gọi là Cửu phẩm liên hoa) cũng bằng đá quý. Bảo tháp này được dựng đối xứng với cây bồ đề lớn do Tổng thống Ấn Độ tặng khi ông đến thăm Hà Nội năm 1959.

Đây cũng là nơi sở hữu pho tượng Thích Ca nhập Niết bàn, một trong những bức tượng Niết bàn đẹp nhất Việt Nam. Nét kiến trúc độc đáo, cảnh quan đẹp và bề dày lịch sử đã góp phần đưa "đóa sen nở trên mặt nước" trở thành một trong những điểm tham quan hấp dẫn du khách khi ghé thăm thủ đô Hà Nội.

Petrotimes
0

Mười hai mắc xích sự sống - TT. Thích Nhật Từ


Pháp thoại do Thầy Nhật Từ giảng trong khóa tu Xuất Gia Gieo Duyên 4 tại chùa Giác Ngộ, ngày 13-08-2018.

Lưu trữ: https://ok.ru/video/1286509038150
0

Mười hai mắc xích sự sống - TT. Thích Nhật Từ


Pháp thoại do Thầy Nhật Từ giảng trong khóa tu Xuất Gia Gieo Duyên 4 tại chùa Giác Ngộ, ngày 13-08-2018.

Lưu trữ: https://ok.ru/video/1286509038150
0

Phân tâm học hiện đại qua cái nhìn Phật giáo

Sự khám phá ra vô thức đã đặt nền móng cho phân tâm học, vì phân tâm học là tâm lý học về vô thức hay tiềm thức. Sau đây chúng ta nhìn sơ lược qua một số chủ đề của phân tâm học trong một viễn cảnh của Duy thức học Phật giáo.



Phân tâm học là ngành tâm lý học chiều sâu do Sigmund Freud (1856 – 1939) sáng lập, mặc dù trước ông có những nhà tâm lý học đi theo hướng này, ví dụ như Mesmer (1734 – 1815) đã sử dụng thôi miên để chữa bệnh tâm lý, trường phái Nancy (cuối thế kỹ XIX) sử dụng thôi miên để chữa bệnh tâm thần, hay Von Hartman viết một cuốn sách được tái bản đến lần thứ 11 khi ông còn sống là cuốn Triết học về Vô thức (1869).

Đúng như nhận xét của Ellenbenger (1970): “đa số những gì gán cho công của Freud là những kiến thức đang phổ biến vào thời ấy, và vai trò của ông là kết tinh nên chúng và cho chúng một hình thức độc đáo”. Sau Freud một chút là Carl Jung (1875 – 1961). Jung đã quen biết và hợp tác với Freud từ 1906 cho đến Đại hội phân tâm học lần thứ IV (1912) và sau đó tách riêng (dù Freud đã đề cử Jung làm chủ tịch của Hiệp hội Phân tâm học thế giới) vì không đồng ý với quan điểm libido (dục lực) đầy tính dục tình của Freud, trong khi ông quan niệm libido là một sức mạnh bản năng tâm lực hơn.

Ngày nay có hàng trăm viện, trung tâm Jung trên khắp thế giới. Hội Tâm lý học Phân tích quốc tế (IAAP) được thành lập năm 1955, có 2500 nhà phân tích phân tâm học của Jung trên thế giới được đào tạo chính quy, số tạp chí chuyên đề phân tâm học của Jung cũng lên tới con số vài chục. Thập niên 1950, D.T.Suzuki đã có cuộc hội thảo với những nhà phân tâm học, một số bài được in trong Thiền và Phân tâm học (London 1960).

Sau đây chúng ta nhìn sơ lược qua một số chủ đề của phân tâm học trong một viễn cảnh của Duy thức học Phật giáo. Và chúng ta biết rằng Duy thức học không phải là tất cả “tâm lý học” Phật giáo, mà chỉ là một phần, vì Duy thức học chỉ một tông phái Phật giáo. Chúng ta cũng cần ý thức rõ rằng tâm lý học nói chung còn là một khoa học mới mẻ, chưa tiến được nhiều so với vật lý học, và cả hai đang mơ về một lý thuyết thống nhất: “Tâm lý học chưa chiến thắng được cuộc chiến thống nhất vĩ đại của nó. Nó đã có được những tia chớp nhận thức, nó đã có một ít chìa khóa, nhưng nó chưa đạt đến một tổng hợp hay một trực giác thuyết phục và hợp lý”, Heidebreder 1933). Nhận xét này vẫn đúng cho đến cuối thế kỷ XX, như các nhà tâm lý học thời hiện thời nhận định.

1. Vô thức

Sự khám phá ra vô thức đã đặt nền móng cho phân tâm học, vì phân tâm học là tâm lý học về vô thức hay tiềm thức. Vô thức là kho chứa những cảm xúc, những tình cảm, những tham muốn, những giận ghét v.v… bị “dồn nén” (những chữ trong ngoặc kép là của phân tâm học) vào bên trong, kho chứa những “mặc cảm mang màu sắc cảm xúc”. Để hiểu sơ vô thức là gì, chúng ta nói đến thí nghiệm liên tưởng từ (association test) của Jung. Người được thử nghiệm phải trả lời tức khắc khoảng 100 từ được đọc chậm bằng những từ đầu tiên vừa hiện trong đầu mình. Người kiểm tra sẽ ghi thời gian phản ứng đối với từng chữ một. Khi trước một từ mà đương sự phản ứng chậm, ngập ngừng, thì đây là từ có vấn đề: từ ấy đã chạm đến một mặc cảm. Ví dụ tới từ “màu đỏ”, đương sự ngập ngừng, thì có thể là hồi còn nằm trong nôi y đã bị ai đó đắp cho cái mền màu đỏ mà vô tình phủ lên mặt, và từ đó y sợ màu đỏ cho tới lớn, sự sợ hãi màu đỏ đã chìm vào vô thức và điều kiện hóa hành động sống bình thường của y. Để làm cho y hết sợ màu đỏ, nhà phân tâm học dùng “thôi miên” hay “liên tưởng tự do” hay “phân tích giấc mơ” (theo phương pháp Freud) hoặc dùng phương pháp “phân tích bằng cách nói chuyện” (theo Jung) để đưa sự dồn nén (repression) hay mặc cảm (complexe) ấy ra ánh sáng của ý thức. Khi được đưa ra ý thức, khi nó được biết đến, mặc cảm đó được giải phóng, người ta lành bệnh, hết sợ màu đỏ một cách vô thức.

Đời sống bình thường của con người được quy định, bị điều động rất nhiều những mặc cảm này. Ví dụ. sư nghiệp của Napoleon, ngoài tài năng quân sự và tham vọng cầm quyền, còn bị điều động bởi một mặc cảm thấp lùn mà mọi người thường chế giễu khi còn ở trường sĩ quan. Hoặc Hitler, còn có mặc cảm là người thợ sơn, một người lính tầm thường, ngoài ra người ta còn thấy tính bạo hành (sadisme) trong việc đưa 6 triệu người Do Thái vào lò hơi ngạt. Hoặc các thanh niên đua xe, ngoài việc thích tốc độ, còn có thể có mặc cảm thu sút nên muốn chứng tỏ mình. Hoặc những người nghiện rượu, nghiện ma túy cũng có những vấn đề mặc cảm nào đó, hay nói theo Phật giáo có những phiền não không thể giải tỏa nào đó. Sự khám phá ra vô thức cho chúng ta thấy, cuộc sống bình thường của chúng ta phần nhiều diễn ra trong vô thức, không có ý thức. Chúng ta thường hành động một cách vô ý thức, đây là điều Phật giáo gọi là hành động không tỉnh giác, hành động vô minh.

Bây giờ khi so sánh với Duy thức, thì cái vô thức của những nhà phân tâm học đã đi đến cái thức thứ tám (alaya – vijnana), kho chứa tất cả những ấn tượng, những cảm xúc, thói quen… của con người. Thức thứ tám hay thức a lại da là kho chứa (tạng thức) tất cả những gì năm thức giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) cảm nhận, được tô đậm thêm bằng sự phân biệt của thức thứ sáu là ý thức, được khúc xạ qua mạt na (thức chấp ngã thứ 7). Thức thứ 8 là thức nền tảng của sinh mệnh, chứa tất cả những hành động (nghiệp) của quá khứ. Những gì được chứa là những chủng tử (hạt giống) chờ cơ duyên để biểu hiện ra (hiện hành).

Vô thức của phân tâm học là thức thứ 8 của Duy thức. Có điều thức a lại da của Duy thức thì rộng hơn và sâu hơn vô thức.

Rộng hơn: vô thức chỉ chứa những mặc cảm, những phiền não lớn (gây ra bệnh tâm thần) còn a lại da thì chứa tất cả những kinh nghiệm sống của con người có được qua 8 thức.

Sâu hơn: vì a lại da không chỉ chứa tất cả những kinh nghiệm sống trong một kiếp mà của tất cả kiếp, từ khi có thời gian đối với con người.

Ở đây cũng nói thêm, một số ít nhà phân tâm học và cả một số nhà mà bây giờ chúng ta gọi là trường sinh học (như Edgard Cayce), khi thôi miên nhiều bệnh nhân, họ có thấy một số nguyên nhân gây bệnh không ở trong đời này mà ở một quá khứ vượt qua đời này. Ví dụ, người sợ nước một cách vô cớ thì y đã chết đuối trong quá khứ, hoặc người vào một phòng không có cửa hay một hẻm cụt thì sợ, vì y đã chết trong hầm không có lối thoát vào đời trước, hoặc khi thôi miên có người nói bằng những tiếng cổ ngữ rất xưa mà y chưa từng học hay gặp… Nhưng một số truyền thống tôn giáo – triết học không tin có những đời trước, những ghi nhận này không được công nhận chính thức. Ở đây chúng ta ghi nhận thêm một điều: công cụ để thăm dò vô thức là thôi miên thì kém rất xa công cụ thăm dò vô thức của Phật giáo là thiền định và thiền quán.

Cũng chính vì không hình dung ra những đời trước cho nên khi thấy trong tâm thức những người khác nhau lại có những cổ mẫu (archetype) giống nhau nên Jung đã cho có một “vô thức tập thể” chung. Theo quan điểm Phật giáo có những cổ mẫu giống nhau là vì những người ấy trong những đời trước đã sống cùng những nơi chốn như nhau nên tâm thức của họ được in vào những hình ảnh, những biểu tượng giống nhau. Nếu vô thức là tập thể thì một người thành Phật, nghĩa là chuyển thức hoàn toàn thành trí, như Đức Thích Ca, thì tất cả mọi người đều đồng thời được tịnh hóa tâm thức, đều được giải thoát. Cho nên không có a lại da tập thể, mà chỉ có tương tác giữa các vô thức hay a lại da thức với nhau.

Nhờ sự khám phá ra vô thức, chúng ta biết nhân cách con người rộng lớn hơn ý thức rất nhiều. Chỉ nói riêng về sự ứng dụng phân tâm học vào văn học, mặc dù phân tâm học vẫn là môn học phát triển chậm và không mạnh ở Việt Nam, hiện nay chúng ta thấy những giáo sư về văn học đã giới thiệu, nghiên cứu và có người đã dùng nó trong nghiên cứu văn học: Đỗ Lai Thúy (Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật, NXB Văn hóa thông tin, 2004,Phân tâm học và văn hóa tâm linh), Phương Lựu (Lý luận phê bình văn học Phương Tây thế kỷ XX, NXB Văn Học, 2001), Nguyễn Văn Dân (Phương pháp luận nghiên cứu văn học, NXB Khoa học xã hội, 2004), Tạp chí văn học số 2, 7, 9 năm 1995…

2. Chữa bệnh

Như vậy với vô thức và sự dồn nén, theo quan điểm phân tâm học, hầu hết mọi người đều có tâm bệnh, vì hầu hết đều có ít nhất là một mặc cảm nào đó. Nhưng đối với Phật giáo, thì tất cả chúng ta, tất cả chúng sinh đều có bệnh, và mầm bệnh không chỉ mới một đời này mà đã tích tập từ đời trước. Đó là bệnh lo sợ, bệnh tham lam, bệnh giận dữ, bệnh si mê, bệnh phiền não, tất cả những cái này là những sức mạnh (nghiệp lực) tạo ra căn bệnh lớn nhất là sống và chết, vòng sanh tử tiếp nối triền miên không dứt. Với Phật giáo, ngày nào con người hết phiền não, không còn bị lôi kéo theo vòng quay của sống chết, ngày đó con người mới được gọi là hết bệnh. Vì lẽ đó, Đức Phật được kinh điển xưng là Bậc Đại Y Vương.

Cách chữa bệnh của phân tâm học là hữu thức hóa nội dung bị che giấu trong vô thức, hay đưa ra ánh sáng của ý thức những mặc cảm làm sinh bệnh ở trong vô thức. Sự “mở rộng ý thức” này, mở rộng ánh sáng vào vùng tối của vô thức là hướng chiến lược của chữa bệnh theo phân tâm học.

Quan niệm về bệnh của Phật giáo sâu rộng như vậy, theo đó người ta luôn luôn mang bệnh (Khổ đế) và tích tập thêm nguyên nhân của bệnh trong người (Tập đế: chân lý thứ 2 của bốn chân lý cao cả của Phật giáo) nên không chờ đợi bệnh hiển lộ ra thành những triệu chứng tâm thần, trầm uất, mất ngủ, ám ảnh, nổi mụn nhọt, động kinh… mà Phật giáo chủ động chữa bệnh ngay khi chúng còn tiềm ẩn trong vô thức. Đó là sự thực hành những pháp môn Phật giáo, hay theo ngôn ngữ thường dùng là “tu hành”.

Do quan niêm vô thức của phân tâm học hạn hẹp hơn a lại da thức của Duy thức, phương pháp chữa bệnh cũng giới hạn hơn, nên cùng lắm phân tâm học chỉ chữa lành được những bệnh ở đời này, còn sự lành bệnh của Phật giáo là sự lành bệnh tất cả mọi đời, sự lành bệnh vĩnh viễn. Sự chữa lành của Phật giáo dựa trên thiền định, thiền quán và thiền định thiền quán đồng thời, như nhiều kinh nói, mà kinh Viên Giác là một ví dụ.

Phật giáo không chỉ giải tỏa những dồn nén, những mặc cảm – những cái này chỉ là những phiền não thô – mà còn giải tỏa nguyên nhân sâu sa của phiền não, dồn nén, mặc cảm, đó là sự chấp ngã, chấp pháp (chấp vào một cái ta giả tạo và chấp rằng những hiện tượng là có thật và không bao giờ biến đổi). Hai cái chấp này đã tạo ra hai sự che chướng, phiền não chướng và sở tri chướng. Những “vô minh” này đã che chướng, cắt lìa con người khỏi thực tại, làm cho tâm thức con người trở thành què cụt, méo mó, biến dạng và chính cái này đã tạo ra khổ đau. Khổ đau kết đọng trong tâm (tâm bệnh) sẽ thành khổ đau kết đọng nơi thân (thân bệnh), đây là quan điểm của y học Phương Tây hiện đại, y học tâm thể (médecine psychosomatique). Như thế, sự chữa lành của Phật giáo sâu xa hơn, và do đó sự phục hồi con người trở lại trạng thái lành bệnh (hết vô minh) cũng toàn diện hơn, đến mức con người tổng thể (chữ dùng của Jung để chỉ con người đã lành hẳn bệnh) của Phật giáo là một trạng thái sâu xa và rộng lớn không thể nghĩ bàn.

3. Sự tiếp cận của phân tâm học với Phương Đông

Khi đào sâu vào ý thức và vượt qua ý thức để đến một vùng gọi là vô thức, phân tâm học cho chúng ta biết rằng con người thì vốn rộng lớn hơn chúng ta tưởng rất nhiều. Với Freud thì con người gồm có bản năng tính dục (Id), ngã (ego) và siêu ngã (superego), cái vượt khỏi cái tôi). Với Jung thì cái vượt khỏi lên cái tôi là “vô thức tập thể”, một chiều sâu chung của các tâm thức con người. Jung không quan niệm vô thức là phần tối tăm dưới đáy như Freud, mà là phần ‘có những yếu tố cao siêu, siêu cá nhân’. Càng về sau, các nhà phân tâm học quan niệm vô thức có chiều cao của nó là “siêu thức”và phân tâm học là “tâm lý học về những chiều cao”. Abraham Maslow (1908 – 1970) dùng thuật ngữ “hữu thể” cho tất cả những kiểu thể nghiệm mà chúng ta gọi là siêu thức, vì một trong những đặc tính của chúng là đem lại một cảm giác “viên mãn của hữu thể” (Bông hồng tâm linh hay sự phát triển siêu cá nhân, R. Assagioli, Huyền Giang dịch trong Phân tâm học và văn hóa tâm linh).

Trong phạm vi một bài ngắn, chúng ta không bàn những giới hạn và có thể có những sai lầm của những ý niệm trên. Chúng ta chỉ chú ý một điều: Phân tâm học phương Tây bắt đầu tiếp cận với đạo học phương Đông, nghĩa là đi từ một chữ tâm viết thường đến một chữ Tâm viết hoa, như truyền thống phương Đông đã làm. Chính vì hướng đi tất yếu của phân tâm học là khám phá và mở rộng đào sâu con người nói chung và tâm thức con người nói riêng mà phong trào tâm phân học vẫn còn tồn tại và phát triển mạnh mẽ cho đến ngày nay. Khác với một phong trào khác như cơ cấu luận hay cấu trúc luận (structurialisme) xuất hiện ở Âu Mỹ vào thập niên 50 rất nổi đình nổi đám nhưng đã chìm xuống chỉ sau hai, ba thập niên: cơ cấu luận đã trở lại với giới hạn nhỏ hẹp của chính nó.

Nói về sự tiếp cận của phân tâm học phương Đông, có lẽ tốt hơn, chúng ta trích vài đoạn trong lời giới thiệu của Jung tựa đề “ Bình giảng tâm lý học” (1935) viết cho cuốn Tạng thư về Đại giải thoát (The Tibetan Book of the great Liberation) do Evans Wentz dịch ra tiếng Anh:

“Sự kiện phương Đông có thể sẵn sàng bỏ cái ngã (ego) khá dễ dàng hình như chỉ ra một cái tâm không phải là cái tâm bình thường của chúng ta. Chắc chắn cái ngã không đóng cùng một vai trò trong tư tưởng phương Đông như nó đã giữ vai trò ấy trong văn hóa chúng ta. Có lẽ như tâm thức phương Đông ít quy ngã hơn, những nội dung của nó nối kết lỏng hơn với chủ thể, sự nhấn mạnh lớn lao hơn được đặt vào những trạng thái tâm thức mang tính vô ngã…

“Chúng ta phải vươn tới được những giá trị phương Đông từ bên trong mà không phải từ bên ngoài, tìm kiếm chúng trong chính chúng ta, trong cái mà những nhà phân tâm học gọi là vô thức. Bấy giờ chúng ta sẽ khám phá sự sợ hãi của chúng ta đối với cái vô thức là lớn biết bao nhiêu và sự chống cự của chúng ta là khinh khủng biết bao nhiêu. Do sự chống cự này mà chúng ta nghi ngờ chính cái có vẻ rất rõ ràng hiển nhiên đối với phương Đông, cái có tên lànăng lực tự giải thoát của tâm hướng nội. Phương diện này của tâm không được phương Tây biết đến một cách thực tiễn, dù cho nó là bộ phận cấu thành quan trọng nhất của cái vô thức.

“Chúng ta không cho rằng tâm là một thực thể siêu hình học hoặc có bất kỳ một mối nối kết nào giữa cái tâm cá nhân và một tâm vũ trụ còn chưa được biết. Thế nên, tâm lí học của chúng ta là một khoa học thuần túy hiện tượng mà không có một nội dung siêu hình học nào. Sự phát triển của tâm lí học phương Tây trong hai thế kỷ vừa qua đã thành công trong việc đã cô lập tâm thức vào lĩnh vực riêng của nó và cắt đứt nó lìa khỏi tính nhất thể vốn có của nó với vũ trụ …

“Thành ngữ ‘thấy thực tại’ rõ ràng ám chỉ tâm như là thực tại tối thượng. Tuy nhiên ở phương Tây, vô thức bị xem là một phi thực tại kì quái. “Thấy tâm” bao hàm tự giải thoát. Điều này có nghĩa là, về mặt tâm lý học, chúng ta càng chú tâm vào tiến trình của vô thức chừng nào thì chúng ta càng tách lìa với thế giới của dục vọng và của phân chia chừng đó, và chúng ta càng gần hơn với trạng thái vô thức với những phẩm chất nhất thể, vô tướng và không có thời gian của nó chừng đó… Tự hiểu biết ở đây là ‘biết tâm’, nó có nghĩa là sự hiểu biết cái vô thức là thiết yếu cho bất kì sự hiểu biết nào về tâm lý của chính mỗi người…”

Qua đoạn văn này chúng ta thấy được khuynh hướng tất yếu của phân tâm học phương Tây khi nghiên cứu tâm thức con người là trở về với cội nguồn, với nền tảng, bản tánh của tâm thức, nghĩa là trở về với cái Tâm viết hoa của phương Đông.

4. Con người toàn diện

Vào những năm 60, Herbert Marcuse, một triết gia ở Mỹ chịu ảnh hưởng của Freud ( cuốnEros and Civilization-Dục tính và văn minh) và Heidegger, nhận định rằng con người hiện đại là con người một chiều (one- dimensional man). Theo quan điểm phân tâm học, con người một chiều là con người chỉ sống theo một hướng trên chiều rộng của ý thức, không có chiều sâu của vô thức trong đó có tâm linh. Như hiện nay chúng ta thấy, vì thiếu chiều sâu của tâm linh nên con người chỉ biết tiêu thụ và sản xuất điên cuồng, làm hư hỏng môi trường trái đất, tàn sát nhau bằng những cuộc chiến gọi là “ sự va chạm của nền văn minh” (nhan đề một cuốn sách của Samuel Hungtington), những bom và hỏa tiễn “thông minh” cho đến “bom người” của khủng bố, những “cá lớn nuốt cá bé” trong kinh tế… Đúng như Freud đã nói (1930) trong Văn minh và những bất toại nguyện của nó ( Civilization and its discontents), văn minh chẳng phải đang thay thế cho dã man bằng cách dồn nén cái dã man vào chỗ sâu kín ( sao không triệt để như Phật giáo là hóa giải thay vì dồn nén ?), mà chính là đang chuẩn bị để cho sự dã man thực hiện những đợt phun trào mới. Và người phương Tây nghĩ thế nào về lời tiên tri của Andre Malraux rằng “thế kỉ 21 là thế kỉ của tôn giáo hay thế kỉ của tâm linh”?

Phân tâm học hy vọng đưa chúng ta tới đâu? Đâu là con người toàn diện cho chúng ta hướng tới? Chúng ta phải hoàn thiện theo chiều hướng nào?

Trong quan niệm của Jung, đó là một nhân cách tổng thể gồm cả ý thức và vô thức hài hòa với nhau: “Nhà phân tích phải thiết lập mối liên hệ với cả hai nửa của nhân cách người bệnh, bởi vì chỉ từ đó mới có thể có được con người trọn vẹn và tổng thể”. Sự thống nhất hài hòa này được Jung gọi là sự “ tự thể hiện mình”. Không hẹn mà gặp, đây là điều nòng cốt của triết học Heidegger. “Con người hiện đại, và như vậy cả triết học của nó, đều đã bỏ quên thể tính”. Thể tính (Etre, Sein) của Heidegger chính là cái vô thức viết hoa của Jung.

Theo Jung, con người tiến hóa đến sự hoàn thiện của chính nó bằng một quá trình mà ông gọi là cá nhân hóa (individualization). Cá nhân hóa không phải là chủ nghĩa cá nhân hay sự quy ngã, mà ngược lại, đó là sự mở rộng của ý thức cá nhân để xuyên thấu và hòa hợp được với vô thức. “Tính cách một mặt, một chiều của ý thức cần được sửa chữa, được bù trừ bởi sự tương tác giữa ý thức và vô thức. Điều này mô tả sự đấu tranh để đạt đến sự trọn vẹn mà Jung tin là sẵn có trong tất cả mọi người” (E.A.Bennet – What Jung really said? 1966). Đây là lời của chính Jung: “Quá trình này trên thực tế là sự nhận biết một cách tự phát tính toàn thể của con người… Nhưng bởi vì mọi thứ hiện hữu hướng tới một cách tổng thể, nên tính một mặt, một chiều tất định của đời sống ý thức của chúng ta tiếp tục được sửa chữa và được bù trừ bởi một con người chung trong chúng ta (nhấn mạnh của bài viết người này) , mục tiêu của nó là sự hoàn toàn hòa nhập giữa ý thức và vô thức, hay đúng hơn, sự đồng hóa cái tôi vào một nhân cách rộng lớn hơn”.

Con đường đi đến một con người toàn thiện, “tổng thể”, đi đến “một con người chung trong chúng ta”, hay nói theo ngôn ngữ của Thiền tông, đi đến “khuôn mặt xưa nay”, “con người chân thật không có danh vị” (‘vô vị chân nhân’ của Thiền sư Lâm Tế), con đường ấy vẫn được tiếp tục cho đến các nhà tâm lý học ngày nay.

Chẳng hạn, chúng ta đọc cuốn sách Những thành tựu lẫy lừng trong tâm lý học hiện đại của Pierre Daco (biên dịch Võ Liên Phương, NXB Thống Kê,2004). Cuốn sách giới thiệu P.Daco: “Một nhà tâm lý học có nhiều kinh nghiệm, có một chỗ đứng vững chắc để trả lời vô số câu hỏi mà cuộc sống hiện đại đặt ra cho chúng ta. Ông rất nổi tiếng với các cuộc nói chuyện trên đài phát thanh, các bài báo cũng như các buổi diễn thuyết, đã tră lời hàng ngàn lá thư về các vấn đề liên quan tới con người. Ông đã chứng minh cho chúng ta thấy khoa tâm lý học đã đem lại nhiều lợi ích cho con người hơn lả khoa phẫu thuật đã đem lại cho cơ thể”. Pierre Daco đã chấm dứt cuốn sách của mình bằng những lời như sau:

“Bản thân sự giáo dục cũng không quan trọng cho lắm. Nếu giáo dục không dạy cho con người biết tổng hợp cuộc đời thì nó vẫn khô khan và không có giá trị nào…Con người không nên tìm kiếm sự giáo dục mà là tìm kiếm sự sung mãn, trọn vẹn. Anh ta phải tìm hiểu các khả năng của chính mình và thực hiện chúng trong sự hài hòa của chính anh ta…Đạt được chủ thể tính (tương đương với cá nhân hóa của Jung ) là mục tiêu cao quý nhất. Không có chủ thể tính, con người “tưởng” đã hiểu, nhưng thực nó chỉ nhìn qua ‘cái tôi’ đã hóa đá. Chủ thể tính chỉ có thể đạt đến với sự giải tỏa được chính mình và các vấn nạn vô thức…

“Với một chủ thể tính sáng suốt, con người đạt đến sự tỏa sáng. Đến lúc đó anh ta là một sức mạnh ổn định để ban phát. Sự tỏa sáng không bao giờ được tìm thấy trong lo sợ hoặc yếu đuối. Nó được tạo ra trong sự thoải mái tinh thần, và con người không còn chạy trốn các vấn đề của nó.

“Chúng ta không nên chiêm ngưỡng những gì vĩ đại ở vài con người. Sự vĩ đại đó chỉ là hậu quả của những khả năng đã được giải tỏa. Nhưng chúng ta phải thương xót vì còn có một cái gì còn thiếu ở nhiều người khác, thay vì những gì họ có thể là…Và như thế, bằng tâm lý học, con người có thể đứng vững trên đôi chân mình trong hàng ngũ các nhà nhân bản tích cực. Sự quân bình của nó là bệ phóng. Sự lo âu và sợ hãi đã biến mất với niềm vui của thiên nhiên vừa tìm lại được. Anh ta bước lên một vùng cao, với sức mạnh được tăng thêm nhiều, sự khoan dung sáng suốt và cao thượng. Anh ta nhã nhặn, hướng về người khác. Sự hào phóng và lòng tốt của anh ta không xuất phát từ một nhu cầu bên trong, nhưng do một sức mạnh bình lặng. Anh ta có sự thông hiểu bởi vì trong tâm trí của anh mọi đấu tranh đã chấm dứt…Tính khả ái của anh đến từ một sức mạnh vĩ đại, chứ không từ sự yếu đuối…”

Chúng ta có thể nói, một con người tổng thể, toàn diện và hài hòa là một con người “tỏa sáng”. Chúng ta đã gặp những sự tỏa sáng mạnh mẽ và trọn vẹn hơn nữa suốt con đường lịch sử Phật giáo.

Để chấm dứt, chúng ta đọc một diễn tả cụ thể của Lục Tổ Huệ Năng (thế kỉ thứ 7) về con đường tiến đến một con người tổng thể toàn diện như thế nào, từ một thức a lại da (vô thức) như một biển lớn đầy các thứ thủy quái phiền não đáng sợ đến sự tỏa sáng của con người tổng thể và toàn diện. Sự chuyển hóa này, đối với Duy thức tông, được gọi là “chuyển thức thành trí” , nghĩa là chuyển cả ý thức và vô thức thành trí huệ, và trí huệ là sự tỏa sáng rốt ráo trọn vẹn (Trí huệ Ba la mật):

“Đại chúng! Thân vật chất của con người là thành, mắt tai mũi lưỡi là cửa. Ngoài có năm cửa, trong có cửa ý. Tâm là đất, tánh là vua…Muốn thấy Phật, hãy hướng vào tánh mà nhìn, chớ hướng ra bên ngoài tìm kiếm…Chấp ta, chấp người là núi Tu Di, tham dục là biển nước, phiền não là sóng lớn, lòng độc hại là rồng dữ, lòng giả dối là quỷ thần, lòng tà vạy là rùa trạnh, lòng tham sân là địa ngục, lòng ngu si là súc sinh.

“Các thiện tri thức! Thường làm mười điều thiện thì thiên đường tự đến, trừ bỏ chấp ta chấp người thì thì núi Tu Di đổ, bỏ lòng tà vạy thì biển nước khô, không có phiền não thì sóng lớn diệt, bỏ độc hại thì cá rồng tuyệt.

“Trên đất tâm mình có tánh giác Như Lai, phóng ra ánh sáng lớn, ngoài chiếu sáu cửa sạch trưng, phá hết cõi trời dục lục, tự tánh chiếu vào bên trong, ba độc liền dứt, các tội địa ngục nhất thời tiêu diệt. Trong ngoài đều sáng suốt như vậy, chẳng khác gì cõi Phật ở Tây Phương”.

Đây có phải là sự thành tựu mà tâm phân học Tây phương vẫn mơ ước ?

Theo NGUYỄN THẾ ĐĂNG / NGUYỆT SAN GIÁC NGỘ











0

Phân tâm học hiện đại qua cái nhìn Phật giáo

Sự khám phá ra vô thức đã đặt nền móng cho phân tâm học, vì phân tâm học là tâm lý học về vô thức hay tiềm thức. Sau đây chúng ta nhìn sơ lược qua một số chủ đề của phân tâm học trong một viễn cảnh của Duy thức học Phật giáo.

0

Quan điểm của Phật giáo về linh hồn và nghiệp báo


Phật giáo không chấp nhận có một cái linh hồn trước sau như một và càng không chấp nhận cái hồn đó đi đầu thai, như người đời lầm tưởng.

Vấn đề sau khi chết, linh hồn tồn tại hay không tồn tại và linh hồn người chết sẽ đi về đâu? Đây là một vấn đề rất phức tạp, thật khó chứng minh. Vấn đề này, có nhiều luận giải quan niệm khác nhau, tùy theo quan niệm giải thích của mỗi tôn giáo và tùy theo niềm tin của mỗi người. Tuy nhiên, người Phật tử khi đặt định niềm tin theo một điều gì, chúng ta cần nên phối kiểm tìm hiểu vấn đề bằng lý trí và qua sự sát nghiệm luận cứ kỹ càng, chứ không nên nghe đâu tin đó. Nhất là đối với những người nói bừa không có một luận cứ vững chắc và không có một niềm tin nào cả. Tốt hơn hết là chúng ta nên cẩn trọng khi nghe người khác nói.

Qua câu hỏi trên, nếu phải luận giải cặn kẽ rõ ràng, thì thật là dài dòng. Ở đây, chúng tôi chỉ dựa theo quan điểm của Phật giáo, mà xin được trình bày góp ý qua một vài nhận xét thô thiển của chúng tôi, còn vấn đề tin hay không là tùy ý ở nơi mỗi người.

Bảo rằng, con người sau khi chết còn có một cái hồn tồn tại và rồi đi đầu thai, chứ không có nghiệp báo gì hết, theo Phật giáo, thì quan niệm lý giải đó không thể chấp nhận được. Phật giáo không chấp nhận có một linh hồn bất tử. Vì đó là lối chấp của ngoại đạo.

Ngày xưa, thời Phật, có 2 phái ngoại đạo nêu ra 2 chủ thuyết: một là “Thường kiến” hai là “Đoạn kiến”. Phái Thường kiến cho rằng, linh hồn con người mãi mãi là con người, dù có tạo tội ác đến đâu, chết rồi cũng tái sinh trở lại làm người. Ngược lại, phái Đoạn kiến thì cho rằng, con người sau khi chết là không có linh hồn tồn tại đời sau, nghĩa là mất hẳn. Họ chấp như thế, nên Phật gọi họ là phái Đoạn diệt hay Đoạn kiến. Vì quan niệm và tin như thế, nên họ tha hồ làm ác, vì không có tội lỗi quả báo ở đời sau. Đây là 2 phái gây tác hại lớn làm đại loạn trật tự an bình cho xã hội.

Hai phái này, theo chủ trương của họ là, không có nhân quả báo ứng. Nhưng chúng ta đừng quên rằng, nhân quả là một chân lý phổ biến, tiềm tàng trong mọi sự vật và chi phối tất cả. Không một loài nào thoát khỏi nhân quả. Do Phật sau khi giác ngộ chân lý, Ngài nói ra cho chúng ta biết như thế.

Vì căn cứ theo luật nhân quả mà nhà Phật nêu ra thuyết nghiệp báo. Hễ chúng ta gây tạo nghiệp nhân gì, sớm hay muộn gì cũng phải có kết quả. Phật giáo không chấp nhận có một linh hồn bất tử như thế. Vì như thế là rơi vào lối chấp thần ngã của ngoại đạo như đã nói ở trên.

Theo Phật giáo, tất cả đều do nhân duyên sinh. Nghiệp báo cũng từ nhân duyên, nhân quả mà hình thành. Theo Duyên khởi luận của Phật giáo, trong đó, có nêu ra thuyết A lại da duyên khởi. Thuyết này thuộc Đại thừa thỉ giáo. A lại da là thức thứ tám sau thức Mạt na. Thức này còn gọi là Tàng thức. Là cái thức trùm chứa tất cả chủng tử thiện ác. Nói Tàng thức, vì thức này có 3 công năng: “năng tàng, sở tàng và ngã ái chấp tàng”.

Năng tàng là thức này có khả năng hay dung chứa tất cả pháp. Sở tàng là khả năng để đựng chứa chủng tử các pháp. Do 2 công năng này, nên khi chúng ta gây tạo nghiệp thiện ác, thì tất cả những hạt giống thiện ác đó đều được huân chứa vào cái kho Tạng thức này. Đến khi đủ nhân duyên, thì những chủng tử ấy phát khởi hiện hành. Những chủng tử (hạt giống) được cất giữ vào trong kho nầy gọi đó là nghiệp thức. Chính cái nghiệp thức này là chủ động theo duyên mà tiếp nối thọ sinh đời sau. Nhà Phật gọi đây là tiếp nối vòng sinh tử luân hồi trong Lục đạo (Trời, người, A tu la, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh ).

Như vậy, theo thuyết nghiệp cảm duyên khởi và A lại da duyên khởi của Phật giáo, thì mỗi ý nghĩ, lời nói, hành động của 3 nghiệp: thân, miệng, ý tạo tác của chúng ta, đều được cất giữ trong cái kho Tạng thức này hết, không sót mất một hạt giống thiện ác nào.

Dụ như một thửa đất chúng ta gieo nhiều loại hạt giống khác nhau, khi mới gieo xuống ta không thấy chúng nẩy mầm lên, vì không thấy nên ta tưởng là chúng bị mất hay không lên, nhưng khi gặp mưa ướt đất, đủ duyên, thì chúng lại nẩy mầm lên. Khi nẩy mầm lên, thì giống nào nẩy mầm theo giống nấy. Như hạt cam, hạt ớt, hạt ổi…mỗi thứ lên khác nhau, chúng không bao giờ lộn lạo. Khi chưa đủ duyên, chúng nằm yên đó, chớ không bao giờ mất.

Cũng thế, nếu hiện đời, chúng ta huân tập nhiều hạt giống lành như niệm Phật, làm lành, làm phước… vào Tàng thức, thì chính những hạt giống đó nó có công năng dẫn dắt chúng ta đến cảnh giới lành sinh ra, để tiếp tục hưởng những quả báo tốt đẹp mà do chúng ta đã gây tạo trong hiện đời nầy. Nhà Phật gọi đó là nghiệp dẫn. Ngược lại, nếu chúng ta tạo nghiệp ác thì cũng như thế. Nên nói, tùy nghiệp thọ sanh là vậy. Nên biết, nghiệp là hành động lặp đi lặp lại nhiều lần thành thói quen. Chính thói quen này khi thuần thục, thì nó có một sức mạnh phi thường để tùy duyên chiêu cảm thọ sinh.

Như người ghiền cờ bạc, họ đi kiếm nơi nào có sòng bài, thì họ nhào vô chơi. Người ghiền nhạc, thì đi tìm phòng nhạc để ca hát… Khi tập thói quen, dĩ nhiên có thói quen tốt và có thói quen xấu. Thói quen tốt hay thói quen xấu, một khi đã tiêm nhiểm thành ghiền nặng rồi, thì chính thói quen đó nó dẫn dắt chúng ta, tùy theo sở thích mà chiêu cảm, Thói quen hay sở thích nào nặng (cực trọng nghiệp), thì nó có một năng lực rất mạnh để tìm đến môi trường thích hợp mà thọ sinh, nên gọi là nghiệp cảm.

Về điểm này, trong Quy Sơn Cảnh Sách, Tổ Quy Sơn cũng có nói: “Như nhân phụ trái, cường giả tiên khiên, tâm tự đa đoan, trọng xứ thiên trụy”. Nghĩa là: Như kẻ mắc nợ, ai mạnh kéo trước, trong tâm nhiều mối, nặng đâu sa đó.

Thường ta nghe trong kinh nói, người khi chết, thần thức xuất ra. Nói thần thức, chính là cái nghiệp thức A lại da, nói rõ ra là những chủng tử thiện hoặc ác đã kết thành nghiệp. Và chính nghiệp thức nầy là đầu mối của việc thọ sinh đời sau đó vậy.

Người đời vì không biết, nên cho là có một cái linh hồn đi đầu thai. Chữ đầu thai có nghĩa là có một cái hồn nhảy vào cái bào thai để thọ thai. Hiểu như thế, thì không phù hợp với hai thuyết: Nghiệp cảm và A lại da duyên khởi của Phật giáo như đã nói ở trên. Không phải có một cái linh hồn đi đầu này đầu kia để kiếm đường chui vào một chỗ nào đó. Theo thuyết A lại da duyên khởi, thì không chấp nhận quan niệm đó. Vì trong thức nầy có đủ chủng tử hữu lậu và chủng tử vô lậu. Chủng tử hữu lậu là những hạt giống tùy duyên mà phát sinh ra thiên sai vạn biệt, tức hiện tượng giới; còn chủng tử vô lậu, có thể đưa đến chỗ giải thoát.

Tóm lại, người nào đó nói rằng sau khi con người chết, có một cái hồn tồn tại đi đầu thai và không có nghiệp báo gì hết, thì điều nầy như chúng tôi đã tạm nêu ra đôi nét giải thích trên, thì quan niệm đó không đúng.

Trong quyển Quy Sơn Cảnh Sách giảng giải của Thiền sư Thích Thanh Từ ở trang 77 có đoạn Hòa thượng nói: “Người thế gian cho rằng mọi người đều riêng có một linh hồn là cái tính linh khôn ngoan sáng suốt, mà đã khôn ngoan thì sao lại chịu vào nơi khổ? Ai cũng nghĩ rằng sau khi chết linh hồn mình sẽ sinh ra làm người nữa và chấp chặt cho linh hồn đó là mình.

Đạo Phật thì gọi đó là tâm thức. Cái tâm thức này tùy theo chỗ huân tập thiện ác mà đến, chứ không cố định. Vì không cố định nên nó không phải là cái khôn ngoan biết lựa chọn, mà chỉ tùy nghiệp mà thôi. Tâm thức khác linh hồn ở chỗ đó. Nếu nói chúng ta có linh hồn thì sẽ tưởng như đó là một tinh thần duy nhất, nếu là duy nhất cố định thì thiện ác, mãi mãi không thay đổi. Nhưng tâm thức chúng ta luôn luôn biến chuyển, gần người lành thì hấp thụ điều lành, gần kẻ ác thì hấp thụ điều ác. Như vậy, tâm thức là một dòng thiện ác sinh diệt, chính dòng thiện ác đó sẽ đưa chúng ta đến chỗ lành hay dữ, nghiệp nào nặng sẽ lôi mình trước, đó là ý Tổ Quy Sơn nói “trọng xứ thiên trụy”.

Như vậy, Phật giáo không chấp nhận có một cái linh hồn trước sau như nhất và càng không chấp nhận cái hồn đó đi đầu thai, như người đời lầm tưởng. Còn bảo rằng không có nghiệp báo gì hết, quan niệm nầy, theo Phật giáo cho đó là thuộc hạng người Nhất xiển đề, tức bất tín cụ. Đây là hạng người họ không có lòng tin nhân quả. Chẳng những không tin mà họ còn bài bác nhân quả nữa. Hạng người như thế, thật chúng ta khó trao đổi luận giải với họ được.

Như đã nói, thuyết nghiệp báo là đặt định trên chiều thời gian nhân quả mà nói. Người nói như thế, thiết nghĩ, họ chưa tìm hiểu về thuyết nghiệp báo. Và chưa hiểu nghiệp là gì. Nếu vì chưa hiểu, thì tốt hơn hết là nên tìm hiểu, chớ không nên nói càn bướng mà chuốc lấy khổ lụy vào thân. Thật là một tai hại vô cùng và thật đáng thương xót lắm thay!

Theo PHẬT GIÁO VIỆT NAM
0

Quan điểm của Phật giáo về linh hồn và nghiệp báo


Phật giáo không chấp nhận có một cái linh hồn trước sau như một và càng không chấp nhận cái hồn đó đi đầu thai, như người đời lầm tưởng.
0

Tùy duyên – một triết lý sống của đạo Phật


Chưa hẳn thuận duyên sẽ đem lại giá trị hạnh phúc hay nghịch duyên sẽ mang tới khổ đau, bởi có khi nghịch duyên đưa tới sự trưởng thành, còn thuận duyên sẽ khiến ta yếu đuối… Tất cả đều tùy thuộc vào bản lĩnh và thái độ sống của ta.

Trong đạo Phật, tùy duyên là biết chấp nhận những gì xảy ra trong hiện tại và bình thản chờ đợi nhân duyên thích hợp hội tụ.

Có câu chuyện kể rằng, ngày tam phục – mùa mà cái nóng oi bức nhất trong năm, cả vườn cỏ của thiền viện đã trở thành một thảm cỏ khô vàng.

“Phát dọn cho sạch sẽ đám cỏ này đi, thế này thì thật là khó coi quá!” Chú tiểu nói.

“Đợi trời mát đã.” Sư phụ vẫy vẫy tay, “Tùy thời”.

Trung thu, Sư phụ lại mua về một bao hạt cỏ giống, gọi chú tiểu đem bao hạt giống này đi gieo. Gió mùa thu trỗi lên và cuốn đi những hạt giống vừa gieo. “Không xong rồi! Các hạt giống bị gió thổi bay đi cả rồi”, chú tiểu kêu la.

“Thôi đi con, không sao đâu, hạt giống vẫn còn rất nhiều, gió cuốn đi cũng không mọc được.” Sư phụ nói, “Tùy tính”.

Sau khi cơn gió đã lấy đi những hạt giống, tiếp theo lại có mấy chú chim đáp xuống mổ ăn. “Chết rồi! Hạt cỏ giống lại bị chim ăn hết rồi!” chú tiểu vừa nhảy vừa la.

“Không sao! Hạt giống còn nhiều, ăn không hết đâu!” Sư phụ nói, “Tùy ngộ”.

Nữa đêm lại bị một trận mưa dữ dội. Vừa mờ sáng chú tiểu vội vã chạy vào phòng thầy: “Sư phụ, lần này thì xong thật rồi! Những hạt giống bị mưa cuốn trôi hết rồi”

“Trôi đến đâu, thì nó sẽ mọc ở đó.” Sư phụ nói, “Tùy duyên”.

Hơn nữa tháng sau, một vùng đất trơ trụi lúc trước giờ lại mọc lên những mầm cỏ non xanh biên biết, có một số ngốc ngách không hề gieo trồng nhưng vẫn mọc lên xanh rờn. Chú tiểu vỗ tay và vô cùng vui sướng.

Sư phụ gật gật đầu: “Tùy hỷ”.

Tùy ngộ, tùy duyên, tùy an, tùy hỷ là 4 trạng thái tiêu biểu cho cuộc sống con người. “Tùy ngộ mà an”, nhiều khi chính thái độ bình thản chờ đợi ấy lại là nhân duyên quan trọng để kết nối với những nhân duyên tốt đẹp khác.

Người ta thường gọi nhân duyên tốt là thuận duyên, và nhân duyên xấu là nghịch duyên. Thế nhưng đã là nhân duyên thì không có thuận nghịch, tốt xấu. Và thuận duyên chưa hẳn sẽ đem lại giá trị hạnh phúc hay nghịch duyên sẽ mang tới khổ đau, bởi có khi nghịch duyên đưa tới sự trưởng thành, còn thuận duyên sẽ khiến ta yếu đuối. Cuộc sống bất biến, bởi vậy nhiều khi thuận duyên ban đầu nhưng lại biến thành nghịch duyên sau này, có khi nghịch duyên bây giờ nhưng lại biến thành thuận duyên trong tương lai. Tất cả đều tùy thuộc vào bản lĩnh và thái độ sống của ta.

Tuỳ duyên không có nghĩa là phó mặc bởi cuộc sống luông có những mối quan hệ tác động qua lại , ảnh hưởng lẫn nhau. Vậy, trước khi tin vào tùy duyên không có nghĩa là bạn ngừng cố gắng bởi làm vậy có nghĩa là bạn đã lựa chọn từ bỏ cơ hội của mình. Khi bạn đã chấp nhận “tuỳ duyên” thì việc duyên đến, duyên đi thế nào cũng là kết quả tất yếu cho những gì bạn đã lựa chọn.

Tùy duyên là cách sống chứ không phải chỉ là lý thuyết xuông. Tùy duyên trong cuộc sống là sống mà không câu nệ và chấp trước bất cứ một sự việc nào dù đó là thuận hay nghịch trong cuộc sống. Những việc đã và đang diễn ra trong cuộc sống chúng ta đều là những bài học làm tăng thêm vốn kinh nghiệm cho bản thân dù đó là những việc tốt hay xấu, đem đến thành công hay thất bại.

Bởi vậy, thay vì thay đổi nhân duyên mà mình không hài lòng, bạn hay cố gắng tìm kiếm những nhân duyên mà mình mong đợi. Khi tìm được sức sống từ nơi chính mình rồi thì bạn sẽ không còn coi trọng những giá trị bên ngoài.

Nhân duyên nào cũng được cả bởi biết đâu được những thất bại của bạn lại là sự may mắn tuyệt vời.

Theo VNMEDIA
0

Tùy duyên – một triết lý sống của đạo Phật


Chưa hẳn thuận duyên sẽ đem lại giá trị hạnh phúc hay nghịch duyên sẽ mang tới khổ đau, bởi có khi nghịch duyên đưa tới sự trưởng thành, còn thuận duyên sẽ khiến ta yếu đuối… Tất cả đều tùy thuộc vào bản lĩnh và thái độ sống của ta.
0

Tại sao Google tìm cầu tuệ giác của Thiền sư Thích Nhất Hạnh?


Thầy Nhất Hạnh cảnh báo rằng nền văn minh của chúng ta đang có nguy cơ sụp đổ trước những thiệt hại nghiêm trọng về xã hội cũng như môi trường sinh thái do nền kinh tế chạy theo ham muốn gây nên. Thầy cũng đồng thời chỉ ra cho chúng ta một hướng đi mới, đó là xây dựng một nền kinh tế lấy hạnh phúc chân thực làm mục tiêu, thay vì hy sinh hạnh phúc của mình để thờ phụng chủ nghĩa vật chất như bấy lâu nay chúng ta vẫn làm.

Chuyển ngữ từ bài viết “Google seeks out wisdom of Zen Master Thich Nhat Hanh” của tác giả Jo Confino đăng trên tờ The Guardian ngày 5/9/2013.

Tại sao nhiều tập đoàn công nghệ lớn nhất thế giới, trong đó có Google, lại dành sự quan tâm đặc biệt đối với một vị Thiền sư Phật giáo người Việt đã 87 tuổi?

Câu trả lời là tất cả các tập đoàn này đều mong muốn tìm hiểu: làm thế nào những lời dạy của Thiền sư Thích Nhất Hạnh – thường được hàng trăm ngàn đệ tử trên khắp thế giới gọi một cách thương kính là Thầy – có thể giúp cho tổ chức của họ có thể hoạt động một cách hiệu quả hơn và mang lại nhiều hạnh phúc hơn.

Thầy Nhất Hạnh được mời hướng dẫn một ngày thực tập chánh niệm tại trụ sở chính của Google tại California vào cuối tháng này – đây là một dấu hiệu cho thấy sự thực tập chánh niệm đang bắt đầu trở nên phổ biến trong xã hội hiện nay. Thầy – tác giả của hơn 2 triệu cuốn sách được bán ra ở Mỹ – sẽ có một buổi gặp gỡ với hơn 20 Giám đốc điều hành (CEO) của các tập đoàn công nghệ có trụ sở ở Mỹ tại Silicon Valley để chia sẻ tuệ giác của Thầy về nghệ thuật an trú trong hiện tại.

Trong buổi gặp gỡ này, Thầy dự định sẽ thảo luận với các Giám đốc điều hành của các tập đoàn công nghệ về cách thức làm thế nào để họ có được một sự hiểu biết sâu sắc về bản chất gắn kết và phụ thuộc lẫn nhau giữa mọi người và mọi loài. Với hiểu biết đó, họ có thể hiến tặng những công cụ thực tiễn để đưa sự thực tập chánh niệm trở thành một phần thiết yếu trong công việc hàng ngày của họ, trong những sản phẩm mà họ chế tạo ra cũng như trong chiến lược mà họ vạch định để khoa học công nghệ có thể mang lại sự thay đổi cho thế giới này. Buổi gặp gỡ này sẽ kết thúc bằng sự thực tập thiền hành.

Những nỗ lực của Thầy trong hơn 50 năm qua đã được nhiều nhà lãnh đạo thế giới ghi nhận. Giám đốc Ngân hàng thế giới Jim Yong Kim đã nói rằng phương pháp thực tập của Thầy Nhất Hạnh là phương pháp “giúp cho chúng ta có thể cảm thông và thương yêu một cách sâu sắc đối với những người đang khổ đau”. Thầy cũng đã từng được Mục sư Martin Luther King đề cử cho Giải Nobel Hòa bình vào năm 1967 vì những nỗ lực của Thầy trong việc kêu gọi hòa bình và chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam.

Mục sư Luther King nói rằng việc trao giải Nobel Hòa bình cho Thầy Nhất Hạnh “sẽ một lần nữa làm cho nhân loại thức tỉnh trước bài học lớn về cái đẹp và tình yêu được tìm thấy trong hòa bình. Nó làm sống dậy niềm hy vọng về một trật tự mới mang tính công bằng và hòa hợp cho thế giới này.”

Thầy Nhất Hạnh xuất gia đã được 71 năm. Mặc dù tuổi đã cao, Thầy vẫn liên tục đi hoằng pháp khắp nơi trên thế giới. Thầy hiện đang trong chuyến đi hoằng pháp ba tháng tại Bắc Mỹ với lịch trình khá nặng. Trước đó, Thầy đã có chuyến đi hoằng pháp tại châu Á cũng trong 3 tháng.

Tăng thân xuất sĩ của Thầy Nhất Hạnh được đánh giá là tăng thân có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới. Vé tham dự những khóa tu do Thầy hướng dẫn trong 1 tuần tại Toronto, Canada hay tại New York, Mississippi và California – mỗi khóa tu đều có hơn 1.000 tham dự – đều được bán hết chỉ trong vài ngày.

Nền kinh tế chạy theo ham muốn

Thầy Nhất Hạnh cảnh báo rằng nền văn minh của chúng ta đang có nguy cơ sụp đổ trước những thiệt hại nghiêm trọng về xã hội cũng như môi trường sinh thái do nền kinh tế chạy theo ham muốn gây nên. Thầy cũng đồng thời chỉ ra cho chúng ta một hướng đi mới, đó là xây dựng một nền kinh tế lấy hạnh phúc chân thực làm mục tiêu, thay vì hy sinh hạnh phúc của mình để thờ phụng chủ nghĩa vật chất như bấy lâu nay chúng ta vẫn làm.

Những lời dạy của Thầy tập trung chủ yếu vào sự thực tập chuyển hóa khổ đau bằng cách buông bỏ những ưu sầu của quá khứ cũng như những lo lắng về tương lai, thông qua thiền định và nếp sống chánh niệm.

Thầy đã chỉ ra rằng tình trạng đam mê tiêu thụ hiện nay là dấu hiệu cho thấy chúng ta đang cố gắng khỏa lấp khổ đau trong chính mình. Và Thầy đề nghị chúng ta nên đi theo hướng ngược lại, đó là trở về để tiếp xúc trực tiếp với nỗi khổ, niềm đau trong ta để có thể vượt thoát những khổ đau đó.

Thầy cho rằng để các doanh nghiệp có thể đóng vai trò quan trọng trong việc chận lại con tàu tư bản đang chạy trật đường ray thì trước tiên các nhà lãnh đạo tập đoàn cần phải nhận ra sai lầm căn bản của mình, đó là cách tư duy hạn hẹp, lấy lợi nhuận làm thước đo duy nhất cho sự thành công của tập đoàn.

Cần có sự thay đổi căn bản trong nhận thức của các doanh nghiệp

Các doanh nghiệp cần phải trải qua một quá trình chuyển đổi căn bản về nhận thức. Họ cần phải nhận ra tầm quan trọng của việc đưa những giá trị tâm linh vào trong đời sống hàng ngày.

Trong một cuộc phỏng vấn với tờ The Guardian vào cuối khóa tu tuần trước tại Catskill Mountains về nghệ thuật chuyển hóa khổ đau, Thầy chia sẻ rằng: “Chúng ta cần phải xem lại quan niệm của chúng ta về hạnh phúc. Chúng ta nghĩ rằng hạnh phúc chỉ có được khi nào chúng ta giành thắng lợi, khi chúng ta giành được vị trí đứng đầu. Tuy nhiên, sự thực thì không cần thiết phải như vậy. Bởi vì ngay cả khi chúng ta kiếm được nhiều tiền hơn, chúng ta vẫn khổ đau như thường. Chúng ta cạnh tranh bởi vì chúng ta không hạnh phúc. Thiền tập có thể giúp cho chúng ta bớt khổ hơn”.

“Nhiều người trong chúng ta nghĩ rằng chúng ta chỉ có thể hạnh phúc khi nào chúng ta vượt lên trên những người khác, khi nào chúng ta trở thành nhân vật số 1. Sự thực là chúng ta không cần phải trở thành “number one” mới có thể hạnh phúc.

“Chúng ta cần phải có một hướng đi tâm linh trong đời sống của mình cũng như trong công việc kinh doanh, nếu không chúng ta không thể nào có thể xử lý những khổ đau do công việc và đời sống hàng ngày tạo ra.”

Những cuộc gặp gỡ với Mục sư Martin Luther King

Nhớ lại những lần gặp gỡ với Mục sư Luther King – những cuộc gặp gỡ này có ảnh hưởng rất quan trọng đến quyết định đấu tranh cho hòa bình và chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam của nhà tranh đấu cho dân quyền nổi tiếng thế giới này, Thầy Nhất Hạnh nói rằng Tổng thống Obama đã bỏ sót một yếu tố quan trọng trong bài phát biểu của mình vào tuần trước, nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày Mục sư Martin Luther King đọc bài diễn văn bất hủ có tựa đề “Tôi có một giấc mơ” (I have a dream).

“Khi Tổng thống Obama kêu gọi hãy để cho tự do được vang tiếng bay xa (let freedom ring), Tổng thống chỉ nói về tự do đến từ bên ngoài như tự do chính trị, tự do xã hội, nhưng thực tế là ngay cả khi chúng ta có rất nhiều tự do về tổ chức, về ngôn luận, về báo chí, v.v. chúng ta vẫn có thể khổ đau như thường bởi vì chúng ta không có tự do ở bên trong chúng ta, đó là sự tự do khỏi những giận hờn và sợ hãi“, Thầy chia sẻ.

Một trong những điều tâm huyết của Mục sư Luther King là xây dựng những cộng đồng, những đoàn thể sống hạnh phúc mà ông gọi là Beloved Community (tạm dịch là Tăng thân yêu quý). Cũng với mong ước đó, Thầy Nhất Hạnh đã dành hết tâm lực của mình cho việc xây dựng hơn một ngàn tăng thân cư sĩ trên khắp thế giới.

Tuy nhiên, liệu các nhà lãnh đạo doanh nghiệp có thể tạo ra một sự thay đổi tích cực hơn thông qua việc xây dựng tinh thần tăng thân, xây dựng văn hóa tập thể trong doanh nghiệp của mình?

Chánh niệm và thiền tập tại công sở

Thầy Nhất Hạnh cho rằng phương pháp thực tập chánh niệm và thiền tập nếu được áp dụng vào các doanh nghiệp sẽ giúp cho họ thay đổi được cách sống, cách làm việc có tính tiêu cực, đồng thời giúp họ nhận ra được bản chất tương tức và phụ thuộc lẫn nhau giữa mọi người và mọi loài.

“Thiền tập có thể giúp cho các thành viên trong doanh nghiệp vơi bớt khổ đau,” Thầy nói. “Chỉ riêng điều này thôi cũng đủ hữu ích rồi, bởi vì nếu nhân viên của một doanh nghiệp có đủ hạnh phúc thì doanh nghiệp đó sẽ làm ăn hiệu quả hơn.”

“Trong trường hợp công ty của anh đang có những hoạt động gây tổn hại môi trường, và bởi vì anh đã thực tập thiền nên anh có thể có được một cái thấy, cái thấy này sẽ giúp anh tìm ra cách thức điều hành công ty của mình theo hướng làm giảm nhẹ những tổn hại đối với môi trường.

“Thiền tập có tác dụng làm lắng dịu nỗi khổ, niềm đau trong ta, đồng thời mang lại cho ta nhiều tuệ giác và một cái thấy chân thực (chánh kiến) về chính bản thân mình và về thế giới. Và nếu ta có được tuệ giác của một tập thể thì chắc chắn là ta sẽ tổ chức và điều hành hoạt động của doanh nghiệp mình theo hướng làm cho thế giới này vơi bớt khổ đau.”

Theo Thầy, đem chánh niệm vào công sở, vào các doanh nghiệp còn có tác dụng giúp cho các nhân viên tránh được tình trạng bị quá tải bởi công việc, tuy nhiên để làm được điều này thì các chủ doanh nghiệp, các giám đốc công ty cần phải làm gương trước.

Các nhà lãnh đạo doanh nghiệp cần phải biết chăm sóc chính mình trước tiên

Thầy cho rằng nhiều lãnh đạo cao cấp của các tập đoàn đã bắt đầu đề cập đến tầm quan trọng của sự phát triển bền vững, tuy nhiên rất ít người trong số đó thấy được mối liên hệ giữa sự phát triển bền vững của một doanh nghiệp với văn hóa bên trong của doanh nghiệp mà họ đang điều hành.

“Nếu người giám đốc doanh nghiệp dành toàn bộ thời gian của mình cho công việc của doanh nghiệp, người đó sẽ không còn thời gian để chăm sóc cho chính mình hay cho gia đình của mình. Người giám đốc đó cần phải nhận ra rằng doanh nghiệp của mình sẽ hoạt động hiệu quả hơn nếu người đó trở nên lắng dịu, tươi mát hơn, có khả năng cảm thông và thương yêu nhiều hơn” Thầy nói.

Trong điều kiện hiện nay khi mà máy tính trở nên quá phổ biến và tiện dụng với tốc độ xử lý ngày càng nhanh thì các giám đốc doanh nghiệp lại càng khó có được thời gian cho riêng mình, thời gian để nhìn lại bản thân và tìm niềm cảm hứng cho cuộc đời mình.

Sức mạnh của Vô tác

Thầy chia sẻ về tầm quan trọng của sự thực tập vô tác (aimlessness), tức là không chờ đợi kết quả, không mong cầu gì hết khi hành động, không có đối tượng gì để chạy theo. Thông thường chúng ta hay có thói quen chạy theo hết dự án này đến dự án khác, không ngừng nghỉ.

“Chúng ta thường cho rằng hạnh phúc nằm ở tương lai, vì vậy sự thực tập vô tác là dừng lại, không đuổi theo một đối tượng nào nữa cả và tìm hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại, bây giờ và ở đây”, Thầy nói.

“Hạnh phúc chân thực không thể nào có được nếu không có bình an. Nếu ta cứ mãi đuổi theo một đối tượng nào đó thì làm sao ta có thể có bình an. Ta cứ chạy hoài, chạy mãi, ngay cả trong giấc mơ chúng ta vẫn còn chạy. Đó là thực trạng của nền văn minh chúng ta”.

“Chúng ta phải đi ngược lại xu hướng này. Chúng ta phải trở về với chính mình, trở về với những người thân yêu, trở về với thiên nhiên. Lâu nay chúng ta để cho các thiết bị điện tử kéo chúng ta ra khỏi chính mình. Chúng ta đánh mất mình trong Internet, trong các dự án, các kế hoạch kinh doanh, vì vậy mà chúng ta không có thời gian cho chính mình. Chúng ta không có thời gian để chăm sóc những người mà ta thương yêu và cũng đồng thời không để cho Đất Mẹ có cơ hội trị liệu cho chúng ta. Chúng ta luôn có xu hướng trốn chạy khỏi chính mình, khỏi gia đình và khỏi thiên nhiên xung quanh.”.

Hầu hết các nhà lãnh đạo doanh nghiệp đều khó nói ra những áp lực mà họ đang phải gánh chịu. Tuy nhiên gần đây một số giám đốc điều hành của những tập đoàn nổi tiếng đã can đảm chia sẻ với công chúng về những áp lực trong công việc của mình, tương tự như những lo ngại của Thầy Nhất Hạnh.

Từ chức một vài tháng trước khi tập đoàn của mình bị phá sản, Erin Callan, cựu Giám đốc Tài chính của tập đoàn Lehman Brothers, đã can đảm viết lại những trải nghiệm của mình khi bị công việc lôi kéo hoàn toàn và chia sẻ điều đó với công chúng vào đầu năm nay.

“Khi quyết định nghỉ việc ở công ty, tôi cảm thấy suy sụp và buồn khổ vô cùng”, Erin Callan chia sẻ trên tờ New York Times. “Tôi không thể nào lấy lại sức lực và đi tiếp được nữa. Tôi không biết phải dựa vào đâu để khẳng định chính mình nếu không có công việc.”

“Vào ngày nghỉ cuối tuần, nếu không phải làm thêm việc của công ty thì tôi cũng dành thời gian để sạc lại năng lượng cho một tuần làm việc kế tiếp. Nói chung, đối với tôi lúc đó, công việc luôn chiếm vị trí ưu tiên số 1, trên cả gia đình, bạn bè và cả việc hôn nhân – chuyện hôn nhân của tôi cũng chỉ kéo dài được một vài năm.”

Bản chất lưỡng nguyên của công nghệ

Mặc dù lo ngại về những tác dụng tiêu cực của công nghệ, Thầy vẫn nhận thấy bản chất lưỡng nguyên của công nghệ, nghĩa là bên cạnh những tác dụng tiêu cực, công nghệ cũng có tác dụng rất hữu ích. Đó là lý do vì sao trong cuộc gặp gỡ sắp tới, Thầy sẽ kêu gọi các Giám đốc điều hành của các tập đoàn công nghệ tập trung phát triển các phần mềm ứng dụng và những thiết bị công nghệ khác để giúp đưa mọi người trở về với một cuộc sống cân bằng.

“Chúng ta cần phải có sự tỉnh thức. Khi nói chuyện với Google và các tập đoàn công nghệ khác, tôi sẽ đề nghị họ sử dụng trí tuệ và thiện chí của mình để tạo ra những phương tiện, những công cụ có khả năng giúp cho mọi người trở về với chính mình, để trị liệu cho chính mình” Thầy nói. ” Chúng ta không loại trừ hay vứt bỏ tất cả các thiết bị công nghệ này, mà chúng ta có thể hoàn toàn tận dụng được những tiến bộ của công nghệ.”

Thầy gợi ý về việc phát triển những phần mềm ứng dụng có khả năng giúp mọi người lắng dịu cơn giận khi nó phát khởi. Thầy cũng đề cập đến loại đồng hồ Now Watch được Thầy thiết kế với mục đích giúp mọi người trở về với phút giây hiện tại: trên mặt đồng hồ, mỗi giờ được đánh dấu bằng chữ “Now” (nghĩa là Bây giờ) thay vì số giờ như thông thường.

Google đã mời Thầy chia sẻ về những nội dung như: xây dựng mục tiêu trong công việc, sự sáng tạo và tuệ giác. Thầy nói rằng chúng ta đều có thể đạt được những điều này thông qua sự thực tập chánh niệm.

Thầy đã được mời đến thăm tập đoàn Google vào năm 2011 và kể từ đó, sự thực tập chánh niệm đã được áp dụng nhanh chóng tại tập đoàn công nghệ hàng đầu này. Số lượng người tham gia vào chương trình “Tìm kiếm trong tự thân” (Search Inside Yourself) – chương trình thiền tập chính thức của Google – ngày càng tăng. Các phòng dành cho thiền tập cũng đã được thiết kế bên trong nhiều tòa nhà làm việc của Google.

Thầy nói rằng: “Cũng như mọi người, các nhân viên của Google cũng mong muốn học hỏi cách thức chuyển hóa khổ đau của chính mình”.

“Đa số các nhân viên ở đây đều còn rất trẻ và tài năng, vì vậy mà họ có thể hiểu và thực tập những điều Thầy dạy một cách nhanh chóng. Họ còn có đủ phương tiện để đem sự thực tập này đến được với rất nhiều người.”

“Sẽ rất hữu ích nếu họ biết rằng ai trong chúng ta cũng có ước mong làm những điều đẹp và lành, bởi vì mỗi người trong chúng ta đều có tính Bụt. Khi nhìn vào con đường bất thiện, không chân chính, chúng ta có thể tìm thấy trong đó một con đường ngược lại. Cũng như nhìn vào khổ đau, chúng ta sẽ thấy được con đường đưa tới hạnh phúc. Đây là giáo lý Tứ Diệu Đế trong đạo Bụt, nhưng chúng ta không cần phải là một Phật tử mới có thể hiểu được điều đó.

“Xã hội của chúng ta đang cần một sự tỉnh thức tập thể để có thể cứu chúng ta ra khỏi cuộc khủng hoảng hiện nay. Vì vậy chúng ta cần phải thực tập để chế tác năng lượng tỉnh thức trong từng bước chân và từng hơi thở. Nếu ta có được sự tỉnh thức thì cũng có nghĩa là ta đang đi trên con đường hạnh phúc, ta có thể chuyển hóa được khổ đau trong ta. Và khi đó ta có thể giúp những người khác làm được tương tự.”

Theo LÀNG MAI
0

Tại sao Google tìm cầu tuệ giác của Thiền sư Thích Nhất Hạnh?


Thầy Nhất Hạnh cảnh báo rằng nền văn minh của chúng ta đang có nguy cơ sụp đổ trước những thiệt hại nghiêm trọng về xã hội cũng như môi trường sinh thái do nền kinh tế chạy theo ham muốn gây nên. Thầy cũng đồng thời chỉ ra cho chúng ta một hướng đi mới, đó là xây dựng một nền kinh tế lấy hạnh phúc chân thực làm mục tiêu, thay vì hy sinh hạnh phúc của mình để thờ phụng chủ nghĩa vật chất như bấy lâu nay chúng ta vẫn làm.
0

Thiền – con đường dẫn đến sự an lạc của tâm hồn

Phàm là con người ai cũng muốn có một cuộc sống đầy hạnh phúc. Tuy nhiên, hạnh phúc đích thực không phải ai cũng dễ dàng có được, bởi lẽ khả năng của mỗi người có giới hạn . Chúng ta cứ mải miết đi tìm hạnh phúc bên ngoài mà quên đi hạnh phúc sẵn có trong nội tại.


Nhưng tiếc thay, guồng máy dục vọng luôn có hướng kéo con người đi vào “vòng tối”. Đôi lúc, nó còn cướp đi quyền tự do, quyền yêu thương, quyền mưu cầu hạnh phúc, thậm chí mất đi quyền làm người, v.v…

Cái guồng máy dục vọng ấy không phải do đấng thần linh nào ban tặng mà do chính con người chúng ta tạo ra.

Tuy vậy, hạnh phúc cũng thật dễ dàng có được đối với những ai biết dừng lại, nhận chân sự thật của cuộc đời, biết chuyển hóa nội tâm, chuyển hóa những triền phược tham, sân, si, làm cho thân tâm yên tịnh. Sự yên tịnh đó đưa con người đến hạnh phúc an lạc.

Thiền chính là phương pháp tốt nhất giúp con người định tĩnh, thoát khỏi khổ đau, đưa con người đến hạnh phúc an lạc trong cuộc đời.

Khoa học đã chứng minh, Thiền mang đến cho con người niềm an lạc nếu họ thực hành. Không có hạnh phúc vật chất nào so sánh được với hạnh phúc an lạc của tâm hồn.

Đứng trước tầm quan trọng đó, người viết chọn đề tài: “Thiền Và Sự An Lạc Của Tâm Hồn”, để một lần nữa, khẳng định: giáo lý của đức Phật không chỉ đúng trong quá khứ mà còn đúng trong tất cả các thời gian và không gian.

Đối với thế giới bấn loạn hiện nay, nếu con người muốn có hạnh phúc, thì không thể thiếu thiền định.

Thật vậy, có nhiều người tuy được thừa hưởng vật chất dồi dào nhưng thay vào đó, họ cũng phải chịu áp lực lớn, cuộc chạy đua khốc liệt của nền kinh tế, chính trị khiến con người mất dần tự do, họ chỉ biết công việc, biết kiếm thật nhiều tiền, bỏ quên những hạnh phúc đời thường, mà đúng ra cần phải có.

Hiện tình cho thấy, con người đang rơi vào tình trạng khủng khoảng tinh thần. Có nhiều người đi tìm cái chết khi họ không tự tìm thấy cho mình một lối thoát.

Thật đáng tiếc, họ đã không biết quý trọng mạng sống của mình. Nếu bạn thấy đau khổ, thấy bế tắc, tại sao lại không dám buông bỏ? Khi bạn buông bỏ, bạn nghĩ mình sẽ mất tất cả từ đó làm mất tinh thần. Nhưng thật sự khi buông bỏ bạn sẽ đón nhận được một nguồn năng lương mới, một hướng giải quyết mới.

Nếu những lúc buồn chán, thất vọng, bạn nên thực hành Thiền. Chỉ cần hít thở và định tâm được 10 phút, bạn sẽ thấy tâm hồn nhẹ nhàng ngay. Trên internet còn quảng cáo cuốn sách của bà Regina Leeds, với tựa đề “8 minutes may change your life”[ 8 phút có thể thay đổi cuộc đời của bạn ].

Có an lạc và tự tin, bạn sẽ tìm ra cách sử lý tốt nhất, chỉ cần ít thời gian như vậy thôi, tại sao bạn không thử ?

Niềm hạnh phúc an lạc do thiền định mang lại, nếu có thực hành, tự thân sẽ cảm nhận, chẳng cần nghe ai quảng cáo. Vị ngọt của canh phải do người nếm biết được, chứ không phải do người nấu, sự an lạc từ thiền cũng thế.

Có khi nào bạn tự hỏi vì sao con người có khổ đau? Nếu bạn không thể đặt ra câu hỏi, chắc chắn bạn cũng không thể trả lời.

Trong kinh Phật chỉ rõ, chúng sanh có 84000 nỗi khổ, nhưng những nỗi khổ ấy không ngoài tham, sân, si, theo ngôn ngữ nhà Phật gọi là Tam độc (three soisons). Chính tham, sân, si đem đến khổ đau cho con người và cũng chính nó cướp đi mạng sống của ta. Khi nào chưa đoạn trừ nó, khổ đau còn theo mãi.

Tham là gì? Tham chính là sự mong muốn có được mọi thứ, lòng tham của con người vốn không có giới hạn, có người tham tiền, có người tham công danh địa vị v.v…, có rồi lại mong có nữa, chính vì tâm quá mong cầu ấy mà con người chịu nhiều khổ đau, như kinh Pháp Cú đức Phật chỉ rõ:

“Tâm dẫn đầu các pháp
Tâm làm chủ, tạo tác
Nếu nói hay hành động
Với tâm niệm bất tịnh,
Khổ não liền theo sau,
như xe theo bò vậy”.
Thật vậy, tâm chính là cội nguồn của tất cả, khổ đau cũng từ tâm và an lạc cũng do tâm. Khi tâm con người chứa đựng những tư tưởng bất thiện muốn làm tổn hại cho người, thậm chí muốn giết người, cướp của v.v… chỉ vì lợi mình. Chính những ý nghĩ ấy thúc đẩy hành động sai lầm dẫn đến khổ đau cho mình và cho người. Khi những nghịch cảnh đưa đến, con người liền nổi sân để kháng cự lại, làm như thế họ tưởng họ đã thắng nhưng họ đâu có biết, phút giây sân hận là phút giây thân tâm đang đi vào đau khổ, sầu não, chán chường, lo âu sợ hãi. Tình trạng nầy được gọi là cẳng thẳng (stress).

Những gì xẩy ra lúc chúng ta bị cẳng thẳng ?

“Lúc bị căng thẳng như giận hờn, sợ hãi, lo âu…não bộ báo động cho nang thượng thận (Adrenal glands) để tiết ra chất epinephrine. Tế bào thần kinh vùng dưới đồi não (Hypothalamus) tiết ra chất Nor-epinephrine. Hai loại hormones nầy (epinephrine và Nor-epinephrine) là những chất hóa học rất mạnh, có nhiệm vụ làm cho các giác quan nhạy bén hơn, các cơ bắp (muscles) rắn chắc hơn, nhưng sự tiêu hóa thức ăn bị giảm. Tim đập nhanh,áp huyết cao, phổi hô hấp mạnh, để đưa oxy tới các tế bào. Đường trong máu gia tăng để cung cấp nhiệt lượng cần thiết. Như thế, cơ thể chúng ta được xem như sẵn sàng ứng chiến (fight) mà không thể chạy trốn (flight) Nếu tình trang căng thẳng lâu ngày, đủ thứ bệnh sẽ sinh ra.” [ Hồng Quang, “Thiền và những lợi ích thiết thực” ].

Ngược lại, khi trong tâm chỉ có thương yêu, không có ý làm hại ai, không làm bất cứ điều gì làm tổn thương người khác, người ấy rất ít bị bệnh tật chi phối và sự an lạc sẽ xuất hiện ngay trong giây phút hiện tại.

Thực tế, khổ vì vật chất thiếu thốn, khổ vì công danh không thành, khổ vì tình duyên trắc trở v.v…, tất cả những khổ đó chưa phải là khổ lớn, khổ lớn nhất của con người là không nhận ra mạng sống của chúng ta mong manh, khổ vì không biết sống trong thực tại và cái khổ lớn hơn hết là cái khổ của sinh tử luân hồi.

Con người không bao giờ thoát khỏi khổ đau nếu không biết tu tập. Bạn nói rằng, bạn không có thời gian để nghỉ ngơi thì làm sao có thời gian tu tập? Nhận định ấy sai lầm. Bạn có thể tu trong mọi lúc, kể cả khi bạn làm việc. Thực tế chứng minh trước khi làm việc mà ngồi thiền được tám đến mười phút, áp lực của sự căng thẳng sẽ giảm xuống, toàn thân thư giãn làm tiêu tan mọi lo âu phiền muộn, tạo sự hưng phấn làm việc cho cả ngày, hiệu quả công việc cao hơn rất nhiều.

Hiện nay, thiền được mọi người áp dụng tất cả mọi nơi, không chỉ trong chốn thiền môn mà cả trong công sở, trường học, bệnh viện, thậm trí cả nhà giam, vì những người phạm tội được thực hành thiền khi họ mãn tù, khả năng tái phạm giảm rất nhiều so với những tù nhân không tập thiền. Thiền không chỉ thực hiện với người bình thường mà thiền còn được hướng dẫn cho những bệnh nhân, những người khuyết tật hay những người thiếu may mắn trong cuộc sống. Chính thiền kéo họ xích lại gần nhau, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau đồng thời xóa đi những mặc cảm tự ti trong lòng họ.

Ni Viện Kiều Đàm thuộc quận 3 thành phố Hồ Chí Minh, thường xuyên tổ chức khóa tu một ngày an lạc cho người khiếm thị (người mù) hàng tháng vào Chủ nhật của tuần thứ ba trong tháng. Lúc đầu con số chỉ mấy chục bây giờ lên tới mấy trăm, nếu lễ lớn thì đông hơn nữa. Trong khóa tu, họ được Ni Sư hướng dẫn niệm Phật, kinh hành, học hỏi giáo lý, đặc biệt xen giữa là hai thời thiền ba mươi đến bốn mươi phút. Nếu ai một lần chứng kiến đều sẽ xúc động, bởi họ bám vai nhau đi kinh hành niệm Phật, nhất là lúc ngồi thiền, gương mặt họ không còn hiện nét khắc khổ. Nhiều người nghĩ, họ tham dự khóa tu vì có quà, nhưng đó là suy nghĩ sai lầm, khi được phóng viên phỏng vấn, họ khẳng định: cho dù Ni Sư không cho quà họ vẫn đi tham dự đầy đủ, vì từ khóa tu họ tìm thấy niềm vui, sự an lạc mà trước đây họ không hề có. Hạnh phúc của họ lan tỏa xung quanh ai ai cũng cảm nhận được. Họ là người khiếm khuyết còn làm được, chúng ta, tại sao không?

Người đời thường bỏ ra một khoản tiền lớn để tìm niềm vui, nhưng niềm vui đó không bền lâu. Có niềm hạnh phúc an lạc dài lâu, không cần tiền ai cũng có được, ấy là niềm hạnh phúc trong thiền định. Người thực hành thiền theo phương pháp dõi hơi thở sẽ thấy cảm giác an lạc nhẹ nhàng lan tỏa khắp toàn thân, cảm giác an lạc ấy thấm trong từng tế bào, thể hiện sự an lạc thảnh thơi qua các cử chỉ hành động nhẹ nhàng, thư thái, nhất là trên khuôn mặt luôn hé nụ cười. Người thực hành thiền định, nhận được nguồn an lạc, họ sẽ coi thiền là một phần quan trọng không thể thiếu trong cuộc sống. Họ có thể không ăn, bỏ thú vui của bản thân, nhưng không bao giờ bỏ hành thiền. Bởi lẽ từ thiền, họ nhận được nguồn an lạc trong sâu thẳm của tâm hồn, không có thứ gì có thể thay thế.

Thiền không chỉ giúp cho con người an lạc mà còn có công năng chữa bệnh. Hiện nay rất nhiều bệnh nhân áp dụng thiền kết hợp với tây y để chữa bệnh, nhất là những bệnh về tim mạch, huyết áp, dạ dày v.v…, người mắc những bệnh này nếu thực hành thiền sẽ giúp điều hòa máu, nhịp tim cũng như nhịp co bóp của dạ dày, dịch vị tiết ra, làm tăng hệ miễn dịch trong cơ thể, đồng thời thải các độc tố trong cơ thể ra ngoài. Có thể tóm lược sự lợi ích của Thiền như sau:

“THIỀN có khả năng chữa trị bệnh tật, chống lão hóa, làm cho con người đẹp hơn, thông minh hơn, khỏe mạnh hơn, sống lâu và có hạnh phúc hơn” [ Hồng Quang, sđd. tr. 5 . Muốn thấy những chứng minh và hình ảnh cụ thể, độc giả nên đọc bài số 1 & 2 trong sách vừa dẫn ].

Nếu thế giới hiện nay người người đều thực hành thiền có lẽ chiến tranh sẽ không xẩy ra. Bởi người tìm thấy hạnh phúc an lạc trong tâm hồn sẽ không để thế sự bên ngoài làm loạn tâm. Song song tu tập của bản thân, họ cũng cảm hóa xung quanh cùng được hưởng niềm an lạc.

Tóm lại, thiền không còn xa lạ với con người cũng như xã hội hiện nay. Rất nhiều trung tâm thiền được mở ra, người người quy ngưỡng thực tập. Sở dĩ thiền được phát triển như vậy là do lợi ích thiết thực mà Thiền mang lại.

Con người đang đứng trước nguy cơ chiến tranh hủy diệt, môi trường bị hủy hoại, và sự chạy đua khốc liệt của cuộc sống v.v…, khiến con người lâm vào tình trạng khủng khoảng tinh thần và thể chất. Trước nguy cơ ấy, thiền như một liều thuốc vô cùng hữu hiệu, mau chóng giúp con người ổn định tâm – thân, tìm thấy được sự an lạc trong sâu thẳm của tâm hồn.

Những ai muốn đem hạnh phúc tới cho bản thân và cho mọi người xung quanh thì, không thể không điều phục tâm qua phương pháp Thiền. Thiền không chỉ cứu con người khỏi nguy cơ hủy diệt, tiêu trừ bệnh tật, mà còn giúp con người hòa nhập với thiên nhiên, với cộng đồng và cũng chính thiền giúp con người tìm thấy niềm vui đích thực của cuộc sống.

Hãy đến với Thiền để niềm vui lan tỏa trong tâm hồn bạn và lan tỏa khắp muôn phương.

Theo THƯ VIỆN HOA SEN
0

Thiền – con đường dẫn đến sự an lạc của tâm hồn

Phàm là con người ai cũng muốn có một cuộc sống đầy hạnh phúc. Tuy nhiên, hạnh phúc đích thực không phải ai cũng dễ dàng có được, bởi lẽ khả năng của mỗi người có giới hạn . Chúng ta cứ mải miết đi tìm hạnh phúc bên ngoài mà quên đi hạnh phúc sẵn có trong nội tại.

0

Càng sùng bái tượng Phật, con người càng xa rời Phật tính


Người Phật tử nước ta nhiều khi kính lạy tượng Phật, cho đấy là Phật mà quên không thấy được vị Phật trong tâm mình, tức Phật tính.

Xin bắt đầu ngay nơi tự thân của chúng ta, một bộ máy được cấu tạo vô cùng tuyệt vời. Tuy rằng Đức Phật chỉ dạy chúng ta quán chiếu để thấy rằng thân thể chúng ta chỉ là một cái túi da trong đó có chứa máu mủ, xương tủy, đờm dãi…Đó là một sự thực…

Khi đạo Phật truyền sang nước ta qua ngả Trung Hoa, thì đồng thời cũng mang theo của họ những nghi thức kính lễ với nhiều tranh, nhiều tượng. Người Phật tử nước ta vì vậy, nhiều khi kính lạy tượng Phật, cho đấy là Phật mà quên không thấy được vị Phật trong tâm mình, tức Phật tính.

Chư Tổ, vì thương cho chúng sinh mê mờ nên trong kinh sách, trong pháp giảng vẫn thường dùng hình tượng cụ thể mà nhắc nhở một cách mạnh mẽ rằng lạy Phật như vậy chỉ là lạy ông Phật bằng đồng, bằng gỗ… chứ chưa phải là vị Phật thật sự. Nhưng cũng chính vì lòng từ mẫn này mà đã gây hại cho bao Phật tử chúng ta, vì do lòng tôn kính đấng Đức Phật nên cho rằng chỉ có một đấng tôn quý là Ngài mà không chịu chấp nhận có vị Phật trong tâm mình, quên rằng Đức Phật vẫn chỉ dạy rằng trong tất cả mỗi chúng sinh đều có Phật tính.

Vì vậy, để tri ân bậc thầy của nhân thiên, xin chia sẻ đến chư vị Phật tử đôi điều cảm nhận và mong hãy cùng nhau lắng lòng thanh tịnh để thấy được Phật tính tự nơi tâm mình.

Tự thân huyền diệu

Xin bắt đầu ngay nơi tự thân của chúng ta, một bộ máy được cấu tạo vô cùng tuyệt vời. Tuy rằng Đức Phật chỉ dạy chúng ta quán chiếu để thấy rằng thân thể chúng ta chỉ là một cái túi da trong đó có chứa máu mủ, xương tủy, đờm dãi…Đó là một sự thực. Nhưng một sự thực nữa là trong cái “túi da” đó, các cơ quan nội tạng đã phối hợp hoạt động nhịp nhàng để chúng ta được sống, được thấy Phật pháp, được tu tập, được thương yêu giúp đỡ nhau…

Như trái tim, một cái “máy bơm” vận hành không ngừng nghỉ để bơm máu đến khắp nơi nuôi cơ thể, khi đưa máu đi, nó tự động đóng các van lại nhằm tạo áp lực đẩy máu vào động mạch. Như hai lá phổi với vô vàn phế nang có công năng đưa oxy vào lọc máu đã qua sử dụng để tạo thành máu sạch mới cung cấp cho tim có “nguyên liệu” để tiếp tục “vận hành”. Nói theo mong ước của các nhà kinh doanh thời nay là có “đầu vào” và “đầu ra” bảo đảm, còn nói theo mong ước của các nhà công nghệ là đạt được “một quy trình công nghệ khép kín”!

Trên đây là nói về các cơ phận bên trong, còn các cơ phận bên ngoài cũng tuyệt vời không kém. Như đôi mắt, tức nhãn căn, một hệ thống thấu kính với vi mạch và màn ảnh vô cùng tinh vi, muốn nhìn xa thì lập tức nhìn xa, muốn nhìn gần thì lập tức nhìn gần, không cần phải tốn thì giờ và công đoạn điều chỉnh tiêu cự như máy ảnh. Một hạt bụi thoáng bay ngang, mi mắt có hàng lông mi làm nhiệm vụ rèm che, lập tức khép lại. Còn bộ máy nào tuyệt vời hơn thế?

Hay như tay của chúng ta, nếu vô tình sắp chạm phải vật nhọn hoặc sức nóng, cảm ứng thần kinh nơi da lập tức truyền tín hiệu báo động về não, sau khi phân tích thấy có thể là nguy hiểm, cũng qua giây thần kinh, não liền truyền ngược lại tín hiệu cho tay co lên để tránh. Hoặc nếu da chúng ta có bị vết thương, sau đó chúng cũng sẽ tự hàn gắn lại. Có bộ máy nào tuyệt vời hơn?

Chỉ xin nêu sơ như vậy để thấy tính huyền diệu của sự sống. Và đừng quên, bên cạnh chúng ta, muôn loài động vật khác trên trái đất này cũng đều có sự sống diệu huyền như vậy.

Trái đất nhiệm mầu

Xin nói tiếp theo về sự nhiệm mầu của trái đất, cái nôi gắn liền với sự sống của muôn loài, kể cả các loài thực vật, khoáng vật…

Chư Phật tử có bao giờ để tâm ngắm nhìn một cây đu đủ ra hoa và kết trái chưa? Xin kể hầu chư vị một trải nghiệm thú vị để chúng ta có thể cùng nhau quán chiếu. Hồi đó, người viết bài này có trồng được một cây đu đủ trong chút đất vườn nhà. Khỏi phải nói, hằng ngày ngắm cây lớn mạnh là cả một niềm vui, nhất là khi cây kết được trái đầu tiên. Một ngày, thấy cọng lá nằm dưới trái héo rũ không đẹp, liền ngắt bỏ. Nhưng qua hôm sau, trái đu đủ đang tươi nguyên mơn mởn chợt rụng. Chao ôi, xuýt xoa mà tiếc vô cùng. Thế rồi sau đó, chợt hiểu ra rằng cọng lá, ngoài việc quang hợp nuôi cây, còn có nhiệm vụ nâng đỡ cho trái bám được vào thân. Khi cuống trái vững chắc thêm một chút thì lá cũng héo đi một chút, cho đến khi trái đủ sức tự mình bám vững vào cây thì lá héo rũ hoàn toàn và tự mình lìa cành. Nhưng cũng chưa hết, khi ra hoa, bao giờ hoa cũng mọc ngay chỗ cuống lá tiếp giáp với thân cây và luôn gồm có một chùm vài ba hoa, mục đích là để bảo đảm chắc chắn cho sự thụ phấn. Bà mẹ trái đất quả đã tính toán chi li toàn vẹn cho từng đứa con của mình!

Thế trái đất có còn điều gì nhiệm mầu nữa không? Thưa, còn rất nhiều, hay có thể nói toàn thể trái đất là cả một sự nhiệm mầu. Muôn loài trên trái đất nương nhờ nơi tứ đại mà sinh sôi nẩy nở nhưng vẫn theo một trật tự tự nhiên để bảo đảm cân bằng sinh thái: Cá nhỏ ăn rong rêu, vi sinh, cá lớn ăn cá nhỏ; có chuột thì có rắn; có sâu bọ thì có chim chóc; có thân xác động vật chết thì có quạ, kên kên, và vi khuẩn staphylococcus phân hủy. Thử hỏi, có một tổ chức nào sắp xếp cặn kẽ được như vậy không?

Đi tìm Phật tính

Những điều nêu trên đã cho chúng ta thấy được tất cả sự sống cùng với bản thân trái đất đầy nhiệm mầu này. Tiến thêm bước nữa trên con đường đi tìm Phật tính, chúng ta thấy rằng trái đất cùng tám hành tinh khác quay quanh mặt trời, tạo thành Thái dương hệ, tức Hệ Mặt trời (Solar System). Rất nhiều hệ như vậy lại cùng nhau quay quanh một tâm, tạo thành thiên hà (galaxy). Và có rất nhiều thiên hà như vậy trong vũ trụ vô cùng này. Nhưng điều đáng kinh ngạc là tuy lơ lửng trong không gian, chẳng bám víu vào đâu, tất cả chúng đều vận hành theo một trật tự nào đó mà không hề xảy ra sự va chạm nào. Còn có tính từ nào khác nữa không để mô tả cho cái đặc tính này nếu không phải là chữ nhiệm mầu?

Giờ đây, nếu truy tìm cái uyên nguyên của trái đất cùng với sự sống nhiệm mầu của nó, chẳng phải tất cả đều khởi thủy từ cái vũ trụ bao la vô cùng vô tận này hay sao? Hoặc có thể nói cách khác, chính từ vũ trụ mà phát sinh ra vô lượng sao và hành tinh, trái đất cùng cuộc sống muôn loài trên đó, toàn thể được vận hành một cách tinh tế, khách quan và công bằng, nhân quả, có cái này có cái kia, có vay có trả.

Chính đấng Đức Phật, qua 49 ngày đêm miên mật trong đại định, đã giác ngộ được cấu trúc và sự vận hành diệu huyền này của vũ trụ, trong đó có cả kiếp nhân sinh cùng với vòng luân hồi sinh tử, nghiệp báo. Vì đây là cái thấy của Phật, nên chư tôn đức đã gọi tên là Phật tính, một cách định danh nhằm tri ân bậc thầy đã tìm ra được cái đặc tính này của vũ trụ. Chẳng khác gì ngành khoa học đã tri ân và vinh danh những người ơn của nhân loại bằng cách lấy tên đặt cho công trình mà họ khám phá ra, như vi trùng phong Hansen, vi trùng lao Koch, động từ Pasteurize… Và do vậy, phải chăng nay chúng ta có thể hiểu và gọi tên một cách chính danh là vũ trụ tính, một cái tên vừa diễn đạt được tính khách quan, vừa thích hợp và dễ hiểu với chúng sinh đương thời?

Và mọi loài chúng sinh, do được khởi phát từ vũ trụ, nên đương nhiên đều có mang tính chất của vũ trụ trong mình, chẳng khác gì tuy chỉ là một giọt nước biển nhưng đều mang tính chất của cả đại dương. Nghĩa là trong mỗi chúng sinh đều có vũ trụ tính mà xưa nay vẫn quen gọi là Phật tính. Chính vì vậy mà Đức Phật vẫn chỉ dạy là tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Chư Tổ, từ ngàn xưa do lòng từ bi mà đã dùng rất nhiều tên gọi nhằm diễn đạt cái vũ trụ tính này để giúp chúng sinh thức tỉnh: Từ tâm đến chân tâm diệu hữu, bản lai diện mục… Như trong câu kệ của tổ Thần Tú: Tâm như minh kính đài (Tâm như đài gương sáng). Đài gương sáng là gì nếu không phải là muốn nói lên cái tính trạm nhiên của vũ trụ? Nhưng tiếc thay, chính những cái tên gọi này lại đã làm cho chúng sinh thêm rối rắm, càng không thấy (và càng không dám tin) là mình cũng có Phật tính tức vũ trụ tính. Và cũng chính vì vậy mà nghi tình “Con chó có Phật tính không?” Đã mặc nhiên trở thành một công án để rồi tiếp tục lưu truyền cho đến nay. Cũng xin nhắc thêm một điều là phần lớn chúng ta hiện nay vẫn thường hay nhắc đến cái Tâm, cho dù chưa nắm bắt được “bản lai diện mục” của cái Tâm là gì!

Thì ra, đâu phải ngẫu nhiên mà cụ Tiên Điền Nguyễn Du, nhà đại thi hào của dân tộc, đã mượn hình ảnh trăng sao trong vũ trụ mà ẩn dụ chữ Tâm: Nửa vành trăng khuyết, ba sao giữa trời…

Theo BÙI KIM SƠN / ĐẠO PHẬT NGÀY NAY
0

Càng sùng bái tượng Phật, con người càng xa rời Phật tính


Người Phật tử nước ta nhiều khi kính lạy tượng Phật, cho đấy là Phật mà quên không thấy được vị Phật trong tâm mình, tức Phật tính.
0

Cuộc đời của thiền sư Thích Nhất Hạnh

Thiền sư Thích Nhất Hạnh là lãnh đạo Phật giáo có ảnh hưởng lớn ở phương Tây và tích cực thúc đẩy hòa bình.


Thiền sư Thích Nhất Hạnh thắp hương ở chánh điện chùa Từ Hiếu ngày 30/10. Ảnh: Võ Thạnh.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh ngày 28/10 trở về chùa Từ Hiếu ở Huế để tĩnh dưỡng trong sự chào đón của chư tăng và phật tử. Ông quyết định ở lại đây cho đến ngày viên tịch.

Thiền sư sinh năm 1926 tại Thừa Thiên - Huế với tên khai sinh là Nguyễn Xuân Bảo. Ông xuất gia theo Thiền tông vào năm 16 tuổi tại chùa Từ Hiếu. Thiền sư tốt nghiệp viện Phật học Bảo Quốc, tu học thiền theo trường phái Đại thừa của Phật giáo và chính thức trở thành nhà sư vào năm 23 tuổi. Ông vừa là thiền sư vừa là giảng viên, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cứu, nhà hoạt động xã hội, và người vận động cho hòa bình.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã phối hợp kiến thức của ông về nhiều trường phái thiền khác nhau cùng với các phương pháp từ truyền thống Phật giáo Thượng tọa bộ, những nhận thức sâu sắc từ truyền thống Phật Giáo Đại thừa, và một số phát kiến của ngành tâm lý học đương đại phương Tây để tạo thành cách tiếp cận mới đối với thiền.

Ông là người đưa ra khái niệm "Phật giáo dấn thân" trong cuốn "Việt Nam: Hoa sen trong biển lửa". Trong cuộc phỏng vấn với nhà báo John Malkin hơn một thập niên trước, thiền sư Thích Nhất Hạnh giải thích về Phật giáo dấn thân: "Khi bom dội lên đầu chúng sinh, bạn không thể ngồi trong thiền viện. Thiền là nhận thức về những gì đang xảy ra, không chỉ bên trong mà còn xung quanh cơ thể và cảm xúc của bạn".

"Phật giáo phải gắn liền với cuộc sống thường nhật, với nỗi đau của bạn và những người xung quanh. Bạn phải học cách giúp đỡ một đứa trẻ bị thương trong lúc duy trì hơi thở chánh niệm. Bạn phải giữ cho bản thân khỏi lạc lối trong hành động. Hành động phải đi cùng thiền", ông nhấn mạnh.

Năm 1956, ông làm Tổng biên tập của Phật giáo Việt Nam, tờ báo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Thập niên 1960, ông lập nên trường Thanh niên Phụng sự Xã hội (SYSS), một tổ chức từ thiện giúp dựng lại các làng bị đánh bom, xây trường học, trạm xá, và hỗ trợ những gia đình vô gia cư sau chiến tranh ở Việt Nam.

Ông cũng là một trong những người thành lập Đại học Vạn Hạnh, trường tư thục danh tiếng, tập trung nhiều nhà nghiên cứu về Phật giáo, văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam. Trong một buổi gặp mặt vào tháng 4/1965, đoàn sinh viên trường Vạn Hạnh đưa ra "lời kêu gọi vì hoà bình", với nội dung chính là thúc giục hai miền Nam - Bắc tìm "giải pháp chấm dứt chiến tranh và đem lại cho người dân Việt Nam cuộc sống hòa bình với lòng tôn trọng lẫn nhau".

Thiền sư Thích Nhất hạnh đã nhiều lần đến Mỹ để nghiên cứu và diễn thuyết tại Đại học Princeton và Đại học Cornell. Sau này, ông tham gia giảng dạy tại Đại học Columbia. Tuy nhiên, mục đích chính của những chuyến đi ra nước ngoài của ông vẫn là vận động cho hòa bình.

Năm 1966, ông lập ra dòng tu Tiếp Hiện đồng thời thành lập nhiều trung tâm thực hành và thiền viện trên khắp thế giới. Ông ở nước ngoài từ sau khi Hiệp định Paris được ký kết năm 1973, cư ngụ chủ yếu tại Tu viện Làng Mai, vùng Dordogne, miền nam nước Pháp.

Là một trong những người thầy về Phật giáo ở phương Tây, những lời dạy và phương pháp của thiền sư Thích Nhất Hạnh thu hút sự quan tâm của nhiều thành phần đến từ các quan điểm tôn giáo, tâm linh và chính trị khác nhau. Ông đưa ra cách thực hành chánh niệm thường được điều chỉnh cho phù hợp với tri giác phương Tây.

Chánh niệm là sự biết rõ những gì đang có mặt, đang xảy ra. "Khi nắm tay một em bé, ta hãy để tâm một trăm phần trăm vào bàn tay em. Khi ôm người thương trong vòng tay cũng thế. Hãy thực sự có mặt, thực sự tỉnh thức. Điều này trái ngược hẳn với cách sống và làm việc của ta trước đây. Chúng ta từng có thói quen làm nhiều việc cùng một lúc. Vừa trả lời e-mail vừa nói điện thoại. Trong khi đang họp về một dự án này, ta viết xuống những ghi chú cho một dự án khác. Thay vì luôn làm nhiều việc cùng một lúc, ta phải tập thói quen chỉ làm mỗi lần một việc", Thiền sư viết trong cuốn sách "Quyền lực đích thực". Ông cho rằng thực hành Chánh niệm giúp nhận diện niềm đau nỗi khổ và chuyển hóa chúng.


Thiền sư Thích Nhất Hạnh ngồi thiền. Ảnh: UBC.

Ông đã viết hơn 100 cuốn sách, trong đó hơn 40 cuốn bằng tiếng Anh, với một số tác phẩm nổi bật như Đường xưa mây trắng, Phép lạ của sự tỉnh thức, Hạnh phúc cầm tay, Phật trong ta, Chúa trong ta...

Cuộc đời ông gắn liền với các hoạt động vì hòa bình. Tháng 6/1965, Thiền sư viết thư cho nhà hoạt động nổi tiếng Mỹ Martin Luther King Jr. để kêu gọi ông công khai chống lại Chiến tranh Việt Nam. Một năm sau, hai người lần đầu tiên gặp nhau tại Chicago, thảo luận về hòa bình, tự do và cộng đồng. Trong cuộc họp báo sau đó, King đã phản đối mạnh mẽ Chiến tranh Việt Nam. Năm 1967, King đề cử Thiền sư cho Giải Nobel Hòa bình nhưng năm đó không ai được trao giải.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh cho biết khi ông "đã không thể tin nổi" khi nghe tin King bị ám sát vào năm 1968. "Tôi nghĩ người Mỹ đã tạo ra King nhưng lại không bảo vệ được ông ấy. Tôi có chút tức giận vào thời điểm đó. Tôi không ăn, không ngủ. Nhưng quyết tâm làm việc, xây dựng cộng đồng vẫn tiếp tục".

Ông tổ chức các khóa tu thiền cho người Israel và người Palestine, khuyến khích họ lắng nghe và học hỏi lẫn nhau; thuyết giảng kêu gọi các nước đang tham chiến hãy đình chiến và tìm kiếm giải pháp ôn hòa cho các mâu thuẫn. Năm 2005, ông tổ chức buổi diễu hành vì hòa bình ở Los Angeles với sự tham gia của hàng nghìn người, theo Christian Science Monitor.

Tháng 5/2013, trong một buổi diễn thuyết kéo dài 3 giờ tại sân vận động ở Hàn Quốc, Thiền sư đã bàn về mối quan hệ giữa Triều Tiên và Hàn Quốc. "Vũ khí hạt nhân là một trở ngại đối với mối quan hệ tốt đẹp giữa hai miền bán đảo Triều Tiên. Nó phản ánh nỗi sợ hãi, tức giận và nghi ngờ của Triều Tiên bởi nếu không, họ đã không xây dựng vũ khí hạt nhân. Vì hòa bình, điều cơ bản cần làm không phải việc loại bỏ vũ khí hạt nhân mà là loại bỏ sự sợ hãi, tức giận và nghi ngờ trong mỗi người. Qua đó, việc hòa giải sẽ trở nên dễ dàng".

Theo thiền sư Thích Nhất Hạnh, chìa khóa để hòa giải chính là việc "biết lắng nghe". Ông cũng khuyên các chính trị gia nên học theo con đường của Phật giáo để giúp ích cho đàm phán và hòa giải.

Sau hơn 4 thập niên rời xa quê hương, ông về Việt Nam lần đầu vào năm 2005 và năm 2007, ông đi khắp đất nước, tổ chức những khóa tu, buổi pháp thoại và gặp gỡ các tăng ni phật tử. Đầu năm 2007, với sự đồng ý của Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, ông tổ chức ba trai đàn chẩn tế lớn tại ba miền Việt Nam với tên gọi "Đại trai đàn Chẩn tế Giải oan", cầu nguyện và giải trừ oan khổ cho những người từng chịu hậu quả của chiến tranh.


Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại chùa Non Nước ở Sóc Sơn tháng 4/2007. Ảnh: Reuters.

Tại Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc tại Hà Nội, ông được mời về Việt Nam với tư cách là người thuyết trình chủ đề chính. Năm 2014, Thiền sư trải qua quá trình hôn mê do xuất huyết não. Sau khi phục hồi, Thiền sư năm 2016 từ Pháp đến tính dưỡng ở Trung tâm tu học Làng Mai ở Thái Lan để được gần quê hương hơn. Năm 2017, ông một lần nữa trở lại Việt Nam và thăm chùa Từ Hiếu.

Với những hoạt động không ngừng nghỉ của mình, thiền sư Thích Nhất Hạnh trở thành nhà lãnh đạo Phật giáo có ảnh hưởng lớn thứ hai ở phương Tây, chỉ sau Đạt Lai Lạt Ma, AP đánh giá trong một bài viết ra năm 2009. Huffington Post hồi cuối năm 2012 gọi thiền sư Thích Nhất Hạnh là "con người điềm đạm nhất thế giới".

Oprah Winfrey, người dẫn chương trình truyền hình Mỹ từng có cuộc phỏng vấn ông năm 2009, ca ngợi những chỉ giảng của ông có tác dụng truyền cảm hứng cho mọi người. "Con người luôn gặp khó khăn trong việc buông bỏ đau khổ. Với nỗi sợ hãi về những điều bất định, họ chọn chịu đau khổ trong những thứ quen thuộc", bà chia sẻ một câu nói.

Phương Vũ/ VnExpress
0