kimluc
Hiển thị các bài đăng có nhãn Văn học. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Văn học. Hiển thị tất cả bài đăng

Thơ Hồ Xuân Hương: Tình dục và tâm thức phản kháng


Trong lịch sử ngôn ngữ và lịch sử văn học Việt Nam. Hồ Xuân Hương là người đầu tiên sử dụng thơ mang tính dục (sexual) của ngôn ngữ văn học hiện đại nước ta. Có thể nói rằng ngôn ngữ văn học Việt Nam đã trải qua một cuộc thay đổi về bản chất và khả năng biểu hiện đầy đủ, sâu sắc qua dòng thơ của Hồ Xuân Hương. Đây là một dấu hiệu tiến bộ trong lĩnh vực ngôn ngữ và văn học.

Hồ Xuân Hương sử dụng tài tình một lối ngôn ngữ đặc thù cho văn thơ; nói lên những yếu tố tâm lý nhân gian rút ra từ những tập quán thông thường, mô tả trắng trợn sự hiếu dục, hiếu sắc giữa hai bề mặt của tri giác.

Những trắc ẩn đó không một ai nói ra hoặc có chăng nữa cũng nữa úp nữa mở bởi những ước lệ khắc khe của Nho giáo của đạo đức xã hội; vì vậy mà không dám”vi phạm” dù dưới hình thức nào của chữ nghiã. Hồ Xuân Hương huỵch toẹt những tệ đoan xã hội, những tiềm ẩn chôn vùitrong lòng sâu của tâm hồn bằng những vần thơ tả chân, lột tả tột độ quan niệm nhân sinh. Nữ sĩ không e lệ, không ngượng ngùng, không sợ thị phi phê phán ở tuổi xuân thì của một thiếu nữ đương thời. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã dân tộc hoá những đặc tính văn hoá chữ Hán mà trước đây sử dụng dè dặt trong văn học chữ Nôm; nhờ điều hòa hai luồng tư tưởng cố hữu nói trên bà đưa vào những vần thơ phản ảnh đích thực hiện trường của một xã hội Việt Nam thời bấy giờ.

Tác giả Hồ Xuân Hương là sản phẩm đúc kết của thế giới ngoại quan và tác động tâm trí nội quan qua từng thời kỳ hay qua từng chặng đường lịch sử mà mỗi thời là động lực lôi cuốn sự biến thái của ý tưởng và ngôn ngữ nhất là ngôn ngữ của văn học những uẩn khúc của thân phận, thân phận bị chà đạp, cưỡng ép, bức tức mà người phụ nữ phải gánh chịu. Hồ Xuân Hương lấy thơ để riễu đời, để miệt thị những kẻ lộng quyền, nói lên những thói hư tật xấu mà xã hội phong kiến đã dung tục đã bao che. Tư tưởng bung xung của nữ sĩ phản ảnh đích thực của cuộc đời mà bà đã sống và thấy. Tuy nhiên; Hồ Xuân Hương không phải là người quá khắc khe với ngôn ngữ hay chủ quan của mình, lời thơ của Hồ Xuân Hương bay bổng và phát tiết ra muôn màu muôn sắc về thế thái nhân tình.

Hồ Xuân Hương một danh sĩ lừng lẫy; hơn phân nữa(100 bài thơ) thơ văn của bà để lại gồm có 17 bài tứ tuyệt, 38 bài Đường luật, 1 bài lục bát biến thể*. Nữ sĩ để lại cho đời những bài thơ bất hủ được truyền tụng cho tới ngày nay. Nhưng có điều; lịch sử văn học chưa xác quyết ngày sinh, tử của Hồ Xuân Hươngmặc dù đã kinh qua một thời gian dài lâu nghiên cứu, tìm hiểu của các nhà biên khảo. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương người xứ Nghệ, gia đình bà thiên di ra Thăng Long và bà chào đời ở Khán Xuân, huyện Vĩnh Thuận gần Hồ Tây. Nơi đây; về sau bà thành lập Cổ Nguyệt Đường làm chỗ thù tạc văn nhân thi phú.

Cuối cùng; chẳng tìm ra Hồ Xuân Hương ra đời vào năm nào và mai táng nơi đâu. Đời chỉ dựa vào văn thơ, tình yêu hoặc những giai thoại truyền khẩu trong dân gian mà giả định(assume) tiểu sử của bà; ngoài ra không để lại một chứng tích tài liệu nào khác hơn.

Nhìn vào hình ảnh cuộc đời của Hồ Xuân Hương, chúng ta không đòi hỏi một yêu cầu nào khác hơn. Nhưng may thay những bài thơ của bà nói lên hình ảnh trung thực của chân lý, hình ảnh trung thành với cuộc đời. Trước cuộc đời và vũ trụ, tiếng thơ của Hồ Xuân Hương được hòa vào thời gian, được gieo vào cung bậc của thơ, được ngâm lên bằng âm thanh chắt lọc cô đọng và thấm sâu vào lòng đất trong một tâm giới của tình yêu, của quả cảm, của xao xuyến, của bức rức, của “kinh kỳ” của chuyển động cơ thể tạo nên những bộc phá nội tại. Nữ sĩ họ Hồ là một nữ nhi “thông minh vốn sẵn tại trời” (ND) ở tuổi tám, mười phát ra từ khẩu khí một lời thơ không phải bình thường và dể dầu như vậy. Từ cuộc đời, từ vũ trụ ngoại giới đã ý thức một vũ trụ tâm hồn; cha chết ở mười tuổi, rồi tới mẫu thân rồi lại nhiễu nhương. Những dằn vặt nội tại chính là những bi thương cuộc đời …

“Giơ tay với thử trời cao thấp
Xoạc cẳng đo xem đất ngắn dài”


(Thơ nôm truyền tụng)

Tiềm ẩn cả một tâm hồn phản kháng, thách thức giữa vũ trụ quan và vũ trụ nội giới cái nhìn của Hồ Xuân Hương khác với cái nhìn của tâm lý học, của triết học. Bởi Hồ Xuân Hương đang đứng giữa của chủ thể, của tâm sinh lý của thời kỳ chuyển kinh trước khi ý thức sự vật ngoại giới. Trên lý thuyết mang tính chất có thực(reality) nhưng trong vai trò chủ thể Hồ Xuân Hương chỉ biết về mình khi có sự vật ngoại giới hiện diện làm cho mình trở nên hiện hữu, vì rằng; ở tuổi mười, mười lăm của Hồ Xuân Hương là một phản kháng nội tại, một yếu tố tâm sinh lý thường xảy ra cho những tuổi dậy thì, một phản kháng siêu hình”giơ tay với thử.. ”là cả một đòi hỏi vượt mức, Hồ Xuân Hương muốn dấn thân, không sợ, không thị phi; “xoạc” với một ý thức trẻ thơ mà đã trưởng thành ở nội giới, nội giới ấy là hình ảnh, biểu lộ tự nhiên đưa tới sự cố là hình ảnh của gợi cảm của ngôn từ. Cũng nhờ đó soi rõ nội tâm Xuân Hương khi đụng chạm với vũ trụ ngoại giới “Trong sâu thẳm của mỗi từ ngữ, tôi chứng kiến sự sinh tôi”

(A fond de chaque mot. J’assiste à ma naissane) Alain Bosquet. Sở dĩ có được những ngôn từ, dù ẩn thể, nó cũng mang lại một cái nhìn thoáng vụt nhưng kinh hoàng giữa hai hình thái sáng tạo và ngôn từ trong tâm lý thơ của Hồ Xuân Hương.

Hồ Xuân Hương lớn dần với thời gian nẩy sinh trong lòng một tư tưởng yếm thế, đôi khi hoài nghi cho chính mình, và; cũng chưa hẳn định nghiã trọn vẹn hai chữ tục lụy. Thái độ ngập ngừng ở tuổi tròn trăng của Mai (Hồ Xuân Hương tự là Mai) khi đến thăm đài Khán Xuân:

Êm ái chiều xuân tới Khán đài
Lâng lâng chẳng bợn chút lòng ai
Ba hồi chiêu mộ chuông gầm sáng
Một vũng tang thương nước lộn trời
Bể ái nghìn trùng khôn tát cạn
Nguồn ân muôn trượng dể khơi vơi
Nào nào cực lạc là đâu tá ?
Cực lạc là đây chín rõ mười.


(Thăm Đài Khán Xuân)

Hồ Xuân Hương tả cảnh quang như một sự ngạc nhiên , nhưng hình ảnh ngạc nhiên là hình ảnh không xa lià đối tượng, gắn bó với đối tượng hiện hữu và trong hình ảnh thiên nhiên đó gắn bó với đối tượng suy tưởng, gắn bó một ý nghĩ của lòng mình là đã khám phá được nội giới mình qua đối tượng. Quan hệ của sự khám phá ấy chính là ngôn từ mà trong thơ của họ Hồ đã sử dụng để cho ta ý thứcsự tương ứng của ba hoàn cảnh qua một ngôn từ: biểu tượng ngôn từ, biểu tượng hình ảnh và biểu tượng tâm lý. Không có một đối tượng vũ trụ lúc ấy mà chỉ có cái nhìn từ vô ảnh mà ra, đó là tâm thức của con người. Không có một đối tượng vũ trụ mà chỉ dàn trải một tâm trạng bơ vơ giữa cảnh quan. Nội tâm chao động phát ra những ngôn từ:” êm ái, lâng lâng, nước lộn trời, dể khơi vơi …” Nữ sĩ Hồ Xuân Hương hiện tại thấy mình nhiều hơn thấy vũ trụ “Nào nào cực lạc là đâu tá?” thấy được sự hoài nghi tức là thấy được tâm trạng chơi vơi bằng một sự thức tĩnh trực tiếp của tâm trạng nhiều hơn qua đối tượng.

Tâm trạng vụt biến thành hình ảnh và thể hiện ra ngôn từ. Trong thế giới thơ, cõi phi ấy chiếm phần quan trọng trong sự khám phá của tâm hồn, có thể nói rằng ý thức của nghệ sĩ bình dân khi sáng tạo ra một câu thơ là do ý kiến về ngoại giới. Hồ Xuân Hương nhận sự vật trong không gian mà không sao thấy được đối tượng tình yêu mình mong muốn; cho nên mơ về (rêver à / a dreamy ) sự vật của vũ trụ là mơ về trạng thái thương nhớ của tình yêu. Đó là những trạng thái đẩy Hồ Xuân Hương vào sự chọn lựa hôn nhân. Nữ sĩ biết phận mình, gái ngoài hai mươi là gái lỡ thì đó là cái nhìn sâu xa của con người muốn tương giao với vũ trụ hiện hữu, mối tương giao đó tìm ra cõi lòng mình đang ẩn kín từ nội giới, trong bài Già Kén Kẹn Hom bà viết:

Bụng làm dạ chịu trách chi ai ?
“Già Kén Kẹn Hom” ví chẳng sai !
Tiếc điã hồng ngâm cho chuột vọc
Thừa mâm bánh lọc để ngưu vầy
Miệng khôn trôn dại đừng than phận
Bụng ỏng lưng eo chớ trách trời
Đừng đứng núi này trách núi nọ
Thì đâu đến nỗi đói ăn khoai !


Đó là những chặng đường của tình yêu bằng sự vật, bằng hiện tượng vũ trụ ngoại giới; sự kiện ta thán, lấy hiện tượng vũ trụ ngoại giới để nói lên vũ trụ tình yêu cho nên lời thơ nghe bình dị, chân thật nhưng đồng thời cũng lập được một ý nghĩ cho ngôn từ. Lời than vắn thở dài chính là nỗi trầm thống của nữ sĩ họ Hồ đang đứng giữa hai lĩnh vực tuổi đời và tình yêu, cả hai thứ đó vật lộn trong tư tưởng vũ trụ quan. Cảm tác bài thơ trên sau khi Hồ Xuân Hương bức ra khỏi cuộc tình đầu bất- đắc- dĩ với Tổng Cóc. Sau cái chết của Tổng Cóc; Hồ Xuân Hương có một cái nhìn đối tượng khách quan, nhìn tiếp thu, nhìn tham dự. Đó là những gì Hồ Xuân Hương muốn gạt ra khỏi vũ trụ nội giới để thiết lập một cái nhìn bình dị, vô tư với hình ảnh đẹp hơn, khát vọng hơn. Đó là khát vọng của sự vật và khát vọng của con người. Hồ Xuân Hương mơ về một người tình tương lai, tương đắc, tương phùng hơn cuộc tình “cưỡng bức” với Tổng Cóc. Qua bài thơ Khóc Tổng Cóc; Hồ Xuân Hương nghiễm nhiên đứng trên dư luận, phi đạo đức, phi lễ nghiã một phản kháng công khai đối với ngoại giới mà bà đương sống:

Hởi chàng ôi! ới hởi chàng ôi !
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi
Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhá
Ngàn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi.


Chính cái nhìn đối tượng khách quan cũng đã đổi thay vũ trụ nội quan của Hồ Xuân Hương đưa tới một cái nhìn sáng sủa hơn.

Đời của Hồ Xuân Hương là một cuộc đời thử thách , đấu tranh tư tưởng khi tuổi mới lớn, rồi lấy chồng rồi ở giá, những vật lộn ngoại giới, gây bấn loạntâm thần đó là yếu tố tâm lý nhưng Hồ Xuân Hương là một phụ nữ nhạy cảm , dể rung động về bản năng sinh lý, nữ sĩ rơi vào một trạng thái bị động về sinh lý nén đọng ( to suppress ). Hồ Xuân Hương đang tìm kiếm cho chính mình đối tượng tình yêu mà xung quanh bà trống không là phù phiếm, đến với Hồ Xuân Hương những thứ tạp nham, bà cảm thấy khổ, chính khổ sở đó đưa tới cái trống không vây phủ và nhận ra trong hiện hữu không có được một hạnh phúc nào khác, thì đó là một hiện hữu trống không “L’être et le néant “ J. P. Sartre; cho nên Hồ Xuân Hương phải xác nhận cụ thể vai trò của mình và chính là cái mà bà đang sống với “vivre avec” hiện hữu; qua bài thơ nguyền rủa như sau:

Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
Lại đây cho chị dạy làm thơ
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa
Dê con buồn sừng húc dậu thưa.


(Mắng Học Trò Dốt)

Để từ đó; đi tìm chân lý cho chính mình, đó là cái mơ tuyệt đối của nữ sĩ.

Ý muốn hoài vọng, nghiã là nhà thơ họ Hồ, kẻ biết hưởng và sáng tạo lối mơ về của mình trong việc chiếm cứ cũng như chia xa mà mỗi trong chúng ta gặp phải cái tương quancủa Hồ Xuân Hương, Bà lý giải cuộc đời qua nhiều trạng thái khác nhau, xung đột với nội tâm, nhưng trong sự xung đột đó bà vẫn mơ về; bỗng nhiên chân lý tuyệt đối xuất hiện như phép mầu Hồ Xuân Hương gặp Phạm Đình Hổ như định mệnh hay giấc mơ của bản thể mơ về vì Hồ Xuân Hương cảm nhận được sự thúc đẩyđó và chính trong lần gặp gỡ ở hội thơ giữa hai người đã tương giao, xem như ngẫu nhiên nhưng thực chất là cố tình, như lối mơ về không còn là ngẫu nhiên mà tiềm ẩn hay bộc phát giữa hữu thức và vô thức.

Phạm tiên sinh nhìn Hồ Xuân Hương dưới một hiện tượng khác, dưới một hiện tượng của một tài hoa và ngược lại Phạm Đình Hổ là một danh sĩ. Từ chỗ thông giao thơ văn họ chuyển qua cái nhìn của tha nhân khác phái. Hồ Xuân Hương làm bài thơ Đưa Đò gởi cho Phạm tiên sinh:

Chú lái kia ơi, biết chú rồi
Qua sông rồi lại đấm ngay bu
Chèo ghe vừa khỏi lòng dòng ngược
Đấm c…ngay vào ngấn nước suối
Mới biết lên bờ đà vỗ đít
Nào khi giữa khúc phải co vòi
Chuyến đò nên nghiã sao không nhớ ?
Sang nữa hay là một chuyến thôi.


Đến khi Hồ Xuân Hương đã đi vào cái tuổi “về chiều”. Bà nhận ra sự phủ phàng của cuộc đời mà bà đã trải qua, bà cảm thấy cô độc trở lại, tình yêu đến rồi đi ở chặng cuối đời là một thức tĩnh nội tại vì bà nhìn cuộc đờiđã ẩn tàng sự biến đổi khi vừa chấp cánh hạnh phúc chưa kịp nhận thì đã khước từ sự biến di ? Có lẽ muốn thể hiện thể tính tình yêu cho nên lối mơ về bất chấp sự biến di đó. Đấy là những câu hỏi có thể có và cũng có thể không có trong lòng một người chứng kiến tổn thương của ái tình để đánh thoátsự hiện hữu đó. Xuân Hương tỏ bày cái vũ trụ nội giới của mình, vừa chua xót vừa rủa đời:

Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Năm thì mười họa nên chăng chớ
Một tháng đôi lần có cũng không
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hỏng
Cầm bằng làm mướn, mướn không công
Thân nầy ví biết dường này nhỉ
Thà trước thôi đành ở vậy xong !


Tâm thức phản kháng của Hồ Xuân Hương lại một lần nữa bộc phát, không buông tha bà chấp nhận về cái gọi là ý thức tục lụy, ý thứcsiêu hình phản kháng. Nói như André Maurois:”Một người đàn bà dù có tầm thường đến mức nào cũng đủ làm cho chúng ta đau khổ; vì họ là đàn bà” Thì Phủ Vĩnh Tường cũng phải lụy cái tài hoa của Xuân Hương; bà biết thân phận mình, biết phận làm lẻ của một người tai to mặt lớn, văn hay chữ tốt đó không phải là chuyện thua thiệt của kẻ sĩ. Bản thể sâu xa của Hồ Xuân Hương là dự ước của hiện sinh cho nên hòa mình với Phủ Vĩnh Tường là cõi mơ về của Hồ Xuân Hương; thời gian siêu hình và thời gian hiện sinh trong cuộc sống của bà dù một phút quyết định của một ý thức ái tình, có kế tiếp chăng, có lẽ; chỉ bên kia cuộc đời cho nên hồi cố với Phạm Đình Hổ chỉ trên biên giới của đời và vô biên chứ không thể trong chuyển vận của hiện sinh giữa đời và tình ái.

Sau cái chết của Phủ Vĩnh Tường Trần Thúc Hiển, rồi tình yêu lỡ vận với Phạm Đình Hổ. Như vậy đời của Hồ Xuân Hương đã ăn nằm với ba nhân vật tai tiếng mà rút lại hóa không. Cái không ở đây là biểu tượng tuyệt vọng; l’être et le néant một hiện hữu trống không, một thôi thúc mà Hồ Xuân Hương gánh chịu của thời gian, thời gian tâm lý chính là thời gian sống của con người; đó là thời gian ý thức mà con người của nữ sĩ đã đắm mình vào và hòa mình trong nhịp sống để tạo nên một biến trình nội tại. Nếu con người đặt mình trong biến trình chuyển vận ngoại tại thì có thể sử dụng được thái độ đối xử của mình.

Thái độ hiện tại thuộc về tư tưởng cũng như tác động là hình ảnh sống động về nhân sinh; phơi bày một chế độ tàn dư phong kiến hẹp hòi, bất công của bọn giáo phường, đạo đức giả hiệu. Qua bài Vịnh Cái Quạt:

Mười bảy hay là mười tám đây
Cho ta yêu dấu chẳng rời tay
Mỏng dày chừng ấy chành ba góc
Rộng hẹp dường nào cắm một cây
Càng nóng bao nhiêu thời càng mát
Yêu đêm không phỉ lại yêu ngày
Hồng hồng má phấn duyên vì vậy
Chúa dấu vua yêu một cái này.


Bài thơ nói lên cái thật của hiện hữu nhưng cái thật của Hồ Xuân Hương là cái bao hàm vũ trụ nội quan có một âm hưởng khác, một âm hưởng nội tại đó là hiện hữu tính dục vật thể. Một lối dụng công chữ nghiã của họ Hồ mà ít ai xây dựng cái cảm quan như vậy. Đó làdòng tâm lý đi từ qúa khứ, hiện tại và tương lai khi con người thấy mình đang sống qua bao nhịp đời đã sống cũng như viễn tượng tương lai của nhịp đời sẽ sống. Đó là thời gian tâm lý mà Hồ Xuân Hương đã vượt qua và chính những giây phút ấylà hành động và cảm giác. Hồ Xuân Hương đã dùng ngôn từ như một thể tính triết học hiện sinh vừa cụ thể hóa vừa tượng trưng những thâm sâu cùng tận của vũ trụ ngoại giới cũng như vũ trụ siêu hình.

Động Hương Tích; Hồ Xuân Hương phơi bày cảm quan của mình qua con người hiện sinh, nhận định bằng cảm giác là nhận định trực tiếp ngay số phận của mình đang sống qua sự bắt gặp của ý thức:

Bày đặt kìa ai khéo khéo phòm
Nứt ra một lỗ hỏm hòn hom
Người quen cõi Phật chen chân xọc
Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm
Giọt nước hữu tình rơi thánh thót
Con thuyền vô trạo cúi lom khom
Lâm tuyền quyến cả phồn hoa lại
Rõ khéo trời già đến dở dom.


(Thơ Nôm truyền tụng)

Cho nên có một hiện hữu hành vi và cảm giác; hiện hữu đang có những tác động gì đang được hoàn tất cả một mùi vị chua chát hay ngọt ngào, hiện hữu có một màu sắc thanh bình hay thê thảm trong khi hoài niệm phai dần với thời gian, không thấy được, không cảm được bằng tri giác không gian mà chỉ có thể bằng ký ức.

Vậy tâm thức phản kháng của Hồ Xuân Hương là tinh thần phản kháng giữa cõi thế vô thường, vô lượng của một thân phận mỏng manh, yếm thế, bức tức rơi vào một xã hội bất công và ngược đãi. Phản kháng là không đành lòng thuận sự ngổn ngang, tình huống nghiêng ngả và gắng gượng tái lập cõi mộng“Cổ Nguyệt Đường” trong cái mộng thái hòa để được xoa dịu, bởi; hiện hữu của nữ sĩ là nỗi trầm thống và tinh thần phản kháng hiện sinh được phát tiết qua những vần thơ nguyền rủa, phẩn nộ với ngậm ngùi của nội tại. Từ chỗ hữu hình và vô hình Hồ Xuân Hương vấp phải những gò đống, hang cùng ngõ cụt những ray rứt nội tại xô mình vào vũ trụ siêu hình, vũ trụ nhân sinh quan.

Ý thức của Hồ Xuân Hương là ý thức đậm mùi tục lụy. Có thể nói rằng khi chấp nhận hiện thể để chứng minh tình cảmcủa mình Hồ nữ sĩ xác định cuộc đời của con người hoàn toàn đau xót và không bao giờ ngừng nghỉ những mối sầu thương và vẫn yêu cuộc đời đau khổ vì khổ đau cũng giống như niềm vui và đôi khi đồng hóa với niềm vui…

những lý lẽ đó hoặc bởi những lý do nào khác mà ta mất đi lịch sử đích thựccủa họ Hồ. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương nhận thức được thời đại của mình đang sống. Đời đã nói một câu như thế nầy thay cho Hồ nữ sĩ “Je ne serait pas ici demain” không cần có tôi ở đây cho ngày mai.

Nghĩ cùng thế sự lòng như đốt
Trông suốt nhân tình dạ muốn say.
Hồ Xuân Hương. Tự Thán


(Thơ Nôm Lưu Hương ký).

Theo VĂN NGHỆ SÔNG CỬU LONG
0

Thơ Hồ Xuân Hương: Tình dục và tâm thức phản kháng


Trong lịch sử ngôn ngữ và lịch sử văn học Việt Nam. Hồ Xuân Hương là người đầu tiên sử dụng thơ mang tính dục (sexual) của ngôn ngữ văn học hiện đại nước ta. Có thể nói rằng ngôn ngữ văn học Việt Nam đã trải qua một cuộc thay đổi về bản chất và khả năng biểu hiện đầy đủ, sâu sắc qua dòng thơ của Hồ Xuân Hương. Đây là một dấu hiệu tiến bộ trong lĩnh vực ngôn ngữ và văn học.
0

Thầm lặng một vầng trăng - Thơ Hồ Thụy Mỹ Hạnh

Mùa thu ơi! thầm lặng một vầng trăng
Đêm nay lạnh rét run từng chiếc lá
Chia tay nhau ta trở thành người lạ
Em nhớ anh vì gió những buổi chiều

Em nhớ anh có thể vì tình yêu
Hay có thể vì ngày xưa quá đẹp
Chia tay nhau cửa vào tim đã khép
Cung đàn năm xưa ai làm lỗi nhịp rồi

Mùa thu ơi! vầng trăng đã vỡ đôi
Kỷ niệm có sưởi cho hồn bớt lạnh
Em đan mộng để tình yêu chắp cánh
Dù ngày xưa đâu trở lại bao giờ

Cuộc từ ly như thể tình cờ
Đêm Đà Lạt thắp vào tim nỗi nhớ
Em có gì ngoài một vầng trăng vỡ
Nghe đêm sâu dằng dặc một nỗi niềm

(7-5-1997)

Bài thơ này đã được nhạc sĩ Trần Hữu Bích phổ nhạc thành bài hát cùng tên.



Tài liệu pdf: Mãnh trăng mồ côi - Hồ Thụy Mỹ Hạnh: http://thuvienlamdong.org.vn/data/attach/201681985627236.pdf

0

Thầm lặng một vầng trăng - Thơ Hồ Thụy Mỹ Hạnh

Mùa thu ơi! thầm lặng một vầng trăng
Đêm nay lạnh rét run từng chiếc lá
Chia tay nhau ta trở thành người lạ
Em nhớ anh vì gió những buổi chiều
0

Anh Vũ Châu (Bến Anh Vũ) - Thơ Lý Bạch


Anh Vũ châu

Anh vũ lai quá Ngô giang thuỷ,
Giang thượng châu truyền Anh Vũ danh.
Anh vũ tây phi Lũng sơn khứ,
Phương châu chi thụ hà thanh thanh.
Yên khai lan diệp hương phong khởi,
Ngạn giáp đào hoa cẩm lãng sinh.
Thiên khách thử thời đồ cực mục,
Trường châu cô nguyệt hướng thuỳ minh?


Dịch nghĩa

Chim anh vũ xưa bay đến sông Ngô
Bãi trên sông mới truyền lại tên Anh Vũ
Chim anh vũ đã bay về Tây qua núi Lũng
Bãi thơm cây xanh biếc làm sao!
Khói toả ra từ lá cây lan làm gió thơm nổi dậy
Bờ liền với hoa đào, sóng gấm sinh
Lúc ấy người đi đày trông hoài cõi xa
Trên bãi dài mảnh trăng cô đơn còn soi sáng cho ai.


(Năm 760)

Lý Bạch năm 56 tuổi bị lưu đày đi huyện Dạ Lang tỉnh Quý Châu. Khi chờ đò ngang để qua sông Trường Giang, ông làm bài này.

Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu

Sóng Ngô anh vũ xưa qua đó
Anh Vũ thành tên gọi đến giờ
Anh vũ về tây qua núi Lũng
Bãi thơm cây cối những xanh mờ
Mùi hương lan diệp lừng trong khói
Sóng gấm đào hoa gợn sát bờ
Thiên khách trông vời thôi cũng uổng
Dọi ai trăng bãi luống bơ vơ!


Nguồn: Đường thi tuyển dịch, NXB Thuận Hoá, 1997

Bản dịch của Hải Đà

Sông Ngô anh vũ lướt bay qua
Anh Vũ thành xưa vẫn gọi là
Núi Lũng trời tây anh vũ khuất
Bãi thơm cây biếc chập chờn xa
Lá lan thoang thoảng lừng hương gió
Sóng gấm bập bềnh lượn sát hoa
Lữ khách hoài trông trời tít tắp
Tình ai trăng dọi sáng đêm tà?

Bản dịch của Phụng Hà

Trường Giang thuở xưa anh vũ đáp,
Anh Vũ thành tên bãi sông Ngô.
Chim dạt về tây tận non Lũng,
Cây xanh bãi rạng hương ngạt ngào.
Lan thơm trong gió, khói mờ tỏa,
Đào thắm bên bờ, sóng gấm xô.
Đi đày, khách trông vời mút mắt,
Bãi sông ai ngắm mảnh trăng cô?

Bản dịch khuyết danh

Trên bãi sông Ngô anh vũ đậu,
Giờ đây chẳng thấy bóng chim đâu.
Hay đã bay về qua núi Lũng,
Bãi thơm cây trái mướt một màu.
Hương lan theo gió ngát mơn man,
Vẫy gọi đào hoa ánh ngập tràn.
Đi đầy qua đó như không thấy,
Chỉ thấy bờ xa mãnh trăng gầy.

0

Anh Vũ Châu (Bến Anh Vũ) - Thơ Lý Bạch


Anh Vũ châu

Anh vũ lai quá Ngô giang thuỷ,
Giang thượng châu truyền Anh Vũ danh.
Anh vũ tây phi Lũng sơn khứ,
Phương châu chi thụ hà thanh thanh.
Yên khai lan diệp hương phong khởi,
Ngạn giáp đào hoa cẩm lãng sinh.
Thiên khách thử thời đồ cực mục,
Trường châu cô nguyệt hướng thuỳ minh?
0

THỤY VÂN - Bồ Tùng Linh

Thuỵ Vân là danh kỹ của đất Hàng Châu. Nhan sắc tài nghệ có một. Năm tuổi mười bốn, mẹ là mụ đầu họ Sái định cho nàng ra tiếp khách.

Thụy Vân thưa rằng:

– Ðây là lúc bánh xe duyên nghiệp của đời con bắt đầu vận chuyển, không nên qua loa cẩu thả. Giá thì do mẹ định, nhưng khách thì xin cho con được tự lựa chọn.

Mẹ bảo được, bèn định giá mười lăm đồng vàng rồi hàng ngày ra tiếp khách.

Khách muốn gặp thì phải có lễ, lễ hậu mới được tiếp một ván cờ, một bức tranh, lễ bạc thì giữ lại uống chén trà mà thôi.

Thuỵ Vân lừng tiếng đã lâu, từ đó các bậc đại thương, giới quyền quí, ngày ngày nối gót nhau vào.

Giới Trấn Dư Hàng có người thư sinh họ Hạ, tài danh nức tiếng đã lâu mà gia tư chỉ vào bậc trung. Chàng vốn ngưỡng mộ Thụy Vân, nhưng chưa dám nghĩ đến giấc mộng uyên ương, cũng gắng hết sức sắm được chút lễ mọn, chỉ mong một phen nhìn ngắm mặt hoa, mà vẫn thầm lo nàng tri đời đã nhiều sẽ không đoái hoài gì đến một kẻ sĩ bần rách như mình.

Ðến lúc gặp mặt, trò chuyện dăm câu, nàng đã tiếp đãi rất mực ân cần. Ngồi nói chuyện giờ lâu, đầu mày cuối mắt đều chứa chan tình. Lại tặng chàng bài thơ:

Việc gì kẻ xin nước

Cầu lam phải nệm sương?

Có lòng tìm chày ngọc,

Ngay giữa chốn người thường

Ðược thơ, chàng mừng rỡ như cuồng, còn muốn nói gì nữa, bỗng con hầu vào báo khách đến, bèn vội vàng từ biệt. Về nhà, đem bài thơ ra ngắm nghía ngâm nga, tơ lòng vương vít.

Ðược một hai ngày, cầm lòng không đậu, lại phải sắm sửa lễ vật rồi trở lại.

Thụy Vân đón tiếp niềm nở, dần dần ngồi dịch lại gần chàng, nét mặt rầu rầu mà rằng:

– Có thể lo toan được một đêm sum họp với nhau không?

Chàng rằng:

– Học trò túng kiết chỉ có cái tấm tình si là có thể đem tặng tri kỷ; sắm được cái lễ biếu nhỏ mọn thì bao nhiêu tơ tằm đã rút hết; được gần mặt hoa là mãn nguyện lắm rồi, còn như tựa gió kề hoa dám đâu mộng tưởng.

Thụy Vân nghe nói chau mày không vui, hai người chỉ nhìn nhau mà không nói gì.

Chàng ngồi lâu không ra; mụ chủ giữ mấy lần gọi Thụy Vân, có thúc giục chàng về đi. Chàng bèn ra về, trong lòng buồn rười rượi. Muốn khánh kiệt gia sản để chuốc một lần vui, nhưng lại nghĩ, sum họp một đêm rồi phải ly biệt suốt đời, tình trạng ấy chịu làm sao nổi. Trù tính đến đấy thì nỗi lòng hăm hở đều tiêu mất hết.

Từ đó bặt không có tin tức vãng lai gì.

Thụy Vân kén khách mở khoá động đào mấy tháng mà chưa chọn được nơi nào xứng đáng. Mụ dầu khá bực tức, rắp toan ép uổng duyên nàng nhưng cũng chưa ra tay.

Một hôm, có chàng tú tài đem lễ biếu đến xin ra mắt, ngồi nói chuyện chốc lát liền nhổm dậy, lấy ngón tay ấn lên trán nàng mà nói: “Ðáng tiếc, đáng tiếc” rồi bỏ đi.

Thụy Vân tiễn khách ra, trở lại , thì mọi người đều thấy trên trán nàng có dấu tay in đen như mực, càng rửa càng thêm rõ.

Sau đó vài ngày vết mực dần dần lan rộng, hơn một năm sau thì lan khắp trán, đến cả mũi nữa. Ai thấy cũng cười mà từ đó, dấu vết xe ngựa ở ngoài cũng dần dần mất hẳn.

Mụ đầu lột hết trang sức, xếp nàng vào hàng ngũ con hầu. Thụy Vân vốn ẻo lả không đưng nổi công việc tôi đòi, ngày càng thêm tiều tuỵ.

Hạ nghe nói, đi qua ghé vào, thấy bù đầu ở dưới bếp, xấu xí như ma, ngẩng đầu thấy chàng thì quay mặt vào tường mà tránh.

Hạ đem lòng thương xót, bèn nói với mụ, muốn chuộc nàng về làm vợ.

Mụ bằng lòng.

Hạ bán ruộng và dốc hết hành trang vốn liếng mua nàng đem về. Ðến nhà, nàng kéo áo lau nước mắt, không dám tự xem là người sánh vai với chàng, chỉ xin giữ phận làm lẽ, để ngôi chính thất chờ người sau này.

Hạ nói:

– Ở đời, cái đáng quí là tri kỷ. Lúc khanh đang thịnh, khanh còn biết đến tôi, lẽ nào vì khanh suy mà tôi lại quên khanh?

Rồi không chịu cưới ai nữa. Ai nghe nói việc này cũng cười cợt, nhưng với chàng thì mối tình càng thêm nồng thắm.

Ðược hơn một năm. Hạ ngẫu nhiên đến đất Tô, gặp chàng thư sinh họ Hoà, cùng trọ một chỗ.

Bỗng dưng Hoà hỏi rằng:

– Danh kỹ đất Hàng là Thụy Vân gần đây ra sao?

Hạ đáp:

– Ðã lấy chồng rồi.

Hoà lại hỏi:

– Lấy ai đấy?

Ðáp:

– Người đó cũng đại loại như tôi.

Hoà nói:

– Ðược như anh thì có thể nói là đúng người rồi đấy, không biết giá bao nhiêu?

Hạ nói:

– Mắc phải bệnh lạ nên cũng rẻ thôi, chẳng thế, loại người chúng tôi sao có thể mua được người đẹp.

Hoà lại hỏi:

– Người đó quả thật có được như anh không?

Hạ thấy anh ta hỏi hơi lạ, nhân đó cũng căn vặn hỏi lại.

Hoà cười mà đáp rằng:

– Thực ra không giấu nhau nữa. Năm trước tôi từng được chiêm ngưỡng danh hoa một lần, rất lấy làm tiếc rằng tài mạo tuyệt vời mà lênh đênh không vừa đôi phải lứa, cho nên đã dùng một thuật mọn làm giảm bớt hào quang, và giữ gìn lấy vẻ ngọc, để dành lại đó chờ tấm gương soi thật mặt của kẻ yêu tài.

Hạ vội hỏi:

– Anh đã chấm được thì cũng có thể chữa được chứ?

Hoà cười mà rằng:

– Sao lại không được, nhưng mà cần vai chính thành tâm cầu xin thì mới được.

Hạ đứng dậy vái mà rằng:

– Người chồng của Thụy Vân tức là tôi đây!

Hoà mừng quá, nói:

– Trong thiên hạ, chỉ có người nhân tài mới thật đa tình, không vì chuyện xấu đẹp mà thay đổi ý nghĩ. Anh cho tôi theo anh về nhà, tôi sẽ tặng anh một người đẹp.

Bèn cùng nhau về. Ðến nơi, Hạ bảo dọn rượu, Hoà vội gạt đi mà rằng:

– Ðể tôi làm phép trước đã, thì người dọn cỗ mới vui lòng chứ!

Tức thì bảo bưng lên một thau nước, lấy ngón tay thư lên trên nước mà nói rằng:

– Rửa đi thì khỏi ngay! Nhưng phải đích thân ra tạ ơn người làm thuốc đấy!

Hạ cười, bưng thau đi vào, đứng đợi Thụy Vân tự rửa mặt trong thau, tay đưa đến đâu thì sạch đến đấy, diễm lệ chẳng khác gì năm xưa.

Vợ chồng cảm cái hậu đức của Hoà, cùng nhau ra ngoài tạ ơn, thì khách đã mất hút đâu rồi, tìm khắp nơi mà không được.

Có lẽ là tiên chăng?

CAO XUAN HUY dịch
0

THỤY VÂN - Bồ Tùng Linh

Thuỵ Vân là danh kỹ của đất Hàng Châu. Nhan sắc tài nghệ có một. Năm tuổi mười bốn, mẹ là mụ đầu họ Sái định cho nàng ra tiếp khách.

Thụy Vân thưa rằng:

– Ðây là lúc bánh xe duyên nghiệp của đời con bắt đầu vận chuyển, không nên qua loa cẩu thả. Giá thì do mẹ định, nhưng khách thì xin cho con được tự lựa chọn.
0

Mùa thu không trở lại - Thơ Nguyễn Việt Chiến

Cô bé ấy có một lần nói khẽ
Anh tin không, em sẽ ngủ một tuần
Anh đừng đến và đừng buồn anh nhé
Em ngủ rồi còn ai nữa mà mong

Em ngủ rồi, em có dậy nữa không?
Mùa thu tiễn anh qua miền phố vắng
Mỏng mảnh quá lời yêu không đủ ấm
Những đam mê ngày ấy ngỡ xa rồi

Nỗi buồn chiều, ta uống với ta thôi
Em như rượu - em làm ta cháy mất
Giấc ngủ ấy ai tin là có thật
Em một mình đốt hết cả mùa thu

Ở bên kia thành phố có sương mù
Ai hát đấy: Ta buồn như cỏ dại
Dậy thôi em, mùa thu không trở lại
Giấc mơ nào trên cỏ hãy còn xanh...


Nguồn:
1. Ngọn sóng thời gian, NXB Thanh niên, 1998
2. Hoa hồng không vỡ, NXB Phụ nữ, 2015
0

Mùa thu không trở lại - Thơ Nguyễn Việt Chiến

Cô bé ấy có một lần nói khẽ
Anh tin không, em sẽ ngủ một tuần
Anh đừng đến và đừng buồn anh nhé
Em ngủ rồi còn ai nữa mà mong
0

[Thơ] Mười năm


Biết nhau từ thuở dại khờ
Giờ đây cát bụi đã mờ mắt trong
Nhánh hồng em chiết bên song
Đã mười xuân rụng mười bông hoa cười
0

[Thơ] Một chiều ngược gió


Em ngược đường, ngược nắng để yêu anh
Ngược phố tan tầm, ngược chiều gió thổi
Ngược lòng mình tìm về nông nổi
Lãng du đi vô định cánh chim trời
0

[Thơ] Đổi lá thu vàng lấy nhớ nhung


Em về chốn ấy nắng hay mưa,
Có tiếc màu hoa giữa độ mùa?
Cánh kiến chở buồn pha sắc phượng
Tô dày thêm mãi khối sầu xưa.
0

BỨC HỌA TRÊN TƯỜNG – Bồ Tùng Linh


Bức Họa Trên Tường

Mạch Long Ðàm, người Giang Tây, với hiếu liêm họ Chu đều là khách trọ ở kinh đô. Ngẫu nhiên cùng dạo chơi một cảnh chùa. Ðiện Phật, giải vũ, phòng tăng đều không lấy gì làm rộng rãi. Chỉ có một vì sư già trụ trì trong đó, thấy khách vào bèn xốc áo ra đón, rồi dẫn khách đi xem khắp đó đây. Trong điện có tô tượng Chí Công, hai bên tường đều vẽ vời rất tình xảo, nhân vật thảy đều như sống thật. Tường bên Ðông vễ bức” Thiên nữ rắc hoa”, ở trong có một thiếu nữ buông mái tóc thề, tay cầm bông hoa, miệng hé cười, đôi môi anh đào muốn nhấp nháy, làn sóng mắt dường như đung đưa.

Chàng Chu chú mục giây lâu, bất giác như bị mất hồn, bàng hoàng thờ thẫn. Rồi thân thể bỗng nhiên phơi phới, như cưỡi trên mây mù, thoắt cái đã bay lên đến bức tường.

Nhìn thấy lầu gác trùng trùng không phải là cõi trần. Một vị sư già đang thuyết pháp ở trên tòa, những người mặc áo hở vai vây xung quanh đông vô kể.

Chu cũng đứng lẫn vào trong số đó. Một chốc, tựa như có người ngầm kéo vạt áo, quay lại thì ra cô thiếu nữ có mái tóc thề, đang vừa cười vừa quay đi. Chàng lập tức trở gót bước theo.

Qua những hành lang quanh co thì có môt căn phòng nhỏ. Chu ngập ngừng không dám tiến nữa nhưng thiếu nữ đã quay đầu lại, đưa bông hoa trong tay lên có vẫy gọi, chàng liền bước theo vào.

Trong phòng tịnh không có người, chàng vội ôm chầm lấy, nàng cũng không kháng cự gì lắm, bèn cùng nhau giao hoan thỏa thích.

Xong rồi nàng đóng cửa ra đi, dặn Chu đừng hỏi. Ðến đêm lại đến.

Cứ thế được hai hôm, các bạn gái nàng biết được, cùng nhau tìm thấy chàng, liền trêu trọc nàng rằng:

– Cậu bé trong bụng đã lớn tướng mà con để mái tóc bồng bồng, cũng học đòi làm gái còn son ư?

Rồi bảo nhau đưa cho nàng nào trâm, nào hoa tai, bắt nàng cuốn ngược tóc lên.

Cô gái thẹn thùng, không nói lời nào. Một nàng bảo:

– Chị em ơi, tụi mình đứng đây lâu, kẻo người ta mất vui.

Cả bọn liền cười và bỏ đi. Chàng nhìn lại nàng, thì tóc mây đã búi cao lên, vành tóc phượng buông thấp xuống, so với cô gái để tóc thề lúc trước lại càng xinh đẹp gấp bội.

Nhìn quanh không có ai, bàn dắt nhau bước vào cuộc ân ái.

Hương lòng rạo rực, lạc thú đang nông, thì bỗng đâu nghe tiếng ủng da cồm cộp rất dữ, dây xích và khóa kêu loảng xoảng, cộng thêm tiếng quát tháo, tiếng cãi cọ huyên náo.

Nàng kinh hoàng nhỏm dậy, cùng với chàng đều ghé mắt nhìn trộm ra ngoài, thì thấy một vị sứ giả mặc áo giáp vàng, mặt đen như sơn, tay cầm khóa, tay nắm chùy, đám thiếu nữ xúm xít xung quanh.

Sứ giả nói:

– Ðã đủ chưa?

Có tiếng đáp:

– Ðủ cả rồi.

Sứ giả lại nói:

– Nhược bằng có chứa chấp người hạ giới thì lập tức bảo nhau cùng khai ra, chớ để phải hối về sau.

Cả bọn đồng thanh đáp:

– Không có đâu!

Sứ giả quay người, đưa cặp mắt cú vọ nhìn quanh, tựa hồ tìm ra kẻ đang nấp.

Cô gái cả sợ, mặt xám như tro, thảng thốt bảo chàng:

– Mau trốn xuống gầm giường.

Rồi mở cánh cửa ngách bên tường lẻn đi mất.

Chu nằm bẹp xuống, không dám thở.

Giây lát nghe tiếng ủng đi vào trong phòng rồi lại đi ra.

Chẳng bao lâu tiếng huyên náo xa dần, bụng đã yên, nhưng ngoài cửa vẫn có tiếng người qua lại bàn bạc.

Chu cứ thấp thỏm như thế giờ lâu, đến lúc bên tai như có tiếng ve kêu, trong mắt nẩy đom đóm, tình trạng ngỡ không chịu nổi nữa, chỉ còn cố lắng tai để đợi nàng về, cuối cùng cũng không còn nhớ thân mình từ đâu mà đến đây.

Bấy giờ Mạnh Long Ðàm đang đứng trước điện thờ chớp mắt đã không thấy Chu đâu, ngờ vực hỏi Nhà Sư.

Vị sư cười đáp:

– Ði nghe thuyết pháp rồi.

Mạnh Long Ðàm hỏi:

– Ở đâu?

Nhà Sư đáp:

– Không xa.

Một chốc Nhà Sư bèn gõ ngón tay lên tường mà gọi to lên rằng:

– Ông đàn việt họ Chu, đi chơi lâu thế, sao chẳng quay về?

Liền thấy giữa bức họa trên tường có hình của Chu, đang đứng nghển cổ lắng tai, chừng như nghe ngóng.

Nhà Sư lại gọi tiếp:

– Ông bạn cùng đi đợi lâu rồi đấy.

Thế rồi Chu bồng bềnh từ trên tường bay xuống, lòng lạnh như tro, người cứng đờ như gỗ, mắt trừng trừng, chân bủn rủn.

Mạnh đâm hoảng, sẽ sàng hỏi han.

Thì ra lúc đó Chu đang núp dưới giường, bỗng nghe tiếng gõ vang như sấm, vội chui ra khỏi phòng để nghe ngóng tình hình.

Cả hai cùng ngước nhìn cô gái nhón hoa thì mái tóc vặn hình ốc đã cuốn cao lên, không còn xõa tóc nữa.

Chu khiếp sợ, vái vị sư già mà hỏi duyên cớ.

Nhà Sư cười đáp:

– Ảo là do mình sinh ra, bần đạo làm sao giải thích được!

Chu ỉu xìu mất cả khí thế.

Mạnh sợ hãi không còn tự chủ nổi, vội đứng dậy lần bậc thềm ra

Dịch Giả: Nguyễn Huệ Chi
0

BỨC HỌA TRÊN TƯỜNG – Bồ Tùng Linh


Bức Họa Trên Tường

Mạch Long Ðàm, người Giang Tây, với hiếu liêm họ Chu đều là khách trọ ở kinh đô. Ngẫu nhiên cùng dạo chơi một cảnh chùa. Ðiện Phật, giải vũ, phòng tăng đều không lấy gì làm rộng rãi. Chỉ có một vì sư già trụ trì trong đó, thấy khách vào bèn xốc áo ra đón, rồi dẫn khách đi xem khắp đó đây. Trong điện có tô tượng Chí Công, hai bên tường đều vẽ vời rất tình xảo, nhân vật thảy đều như sống thật. Tường bên Ðông vễ bức” Thiên nữ rắc hoa”, ở trong có một thiếu nữ buông mái tóc thề, tay cầm bông hoa, miệng hé cười, đôi môi anh đào muốn nhấp nháy, làn sóng mắt dường như đung đưa.
0

THƯ SINH HỌ DIỆP – Bồ Tùng Linh


Miền Hoài Hương có chàng thư sinh họ Diệp, không rõ cả tên và tự. Văn chương từ phú trội nhất đương thời, nhưng đến đâu cũng lận đận, long đong khốn khổ mãi trong trường công danh.

Gặp lúc ông Ðinh Thừa Hạc, người Ðông Quan, đến làm quan ở ấp ấy, xem văn chương của chàng, cho là kỳ tài, bèn mời đến đàm đạo.

Ông rất bằng lòng, cho chàng đến ở trong dinh thự, cơm nước đèn sách, cấp cho đầy đủ, thỉnh thoảng lại gửi tiền thóc về giúp đỡ gia quyến nữa.

Ðến kỳ sơ thí, ông hết sức tán dương văn tài của chàng trước mặt quan học sử, rồi đó chàng đỗ đầu hàng xứ.

Ông trông mong vào chàng rất tha thiết; sau khi vào trường thi Hương, cho lấy văn của chàng để xem và đọc vừa gõ bàn đánh nhịp, ngợi khen không ngớt.

Ngờ đâu thời vận neo người, văn chương ghen mệnh, bảng đã treo, lại hỏng tuột.

Chàng trở về, choáng váng tê mê, trong lòng lại thẹn là mình đã phụ người tri kỷ, thân hình gầy ruộc như bộ xương còn đứng, người ngây ra như khúc gỗ.

Ông nghe tin, cho mời đến an ủi.

Chàng rơi lụy dầm dề.

Ông rất thương tình, hẹn đến khi nào mãn kỳ khảo tích về kinh thì đem chàng cùng đi.

Chàng rất cảm kích cáo từ ra về , từ đấy đóng cửa không đi đâu nữa.

Chẳng bao lâu chàng lâm bệnh, ông luôn luôn hỏi thăm và đưa quà, nhưng thuốc uống đã trăm thang mà vẫn không công hiệu. Vừa lúc ấy ông lại có điều xúc phạm đến quan trên, bị cất chức, sắp về nhà, viết thư cho chàng, đại lược nói rằng: “Tôi nay mai về Ðông, mà sở dĩ còn chần chừ chưa đi ngay, là chỉ vì muốn chờ túc hạ đi đó thôi. Túc hạ đến buổi sáng, thì buổi chiều là tôi khởi hành…”

Thư đưa đến bên giường nằm, chàng cầm xem khóc sụt sùi, rồi nhắn sứ giả về nói là đang bị bệnh nặng, khó bình phục ngay được, xin cứ đi trước.

Sứ giả về bẩm, ông không nỡ đi, ráng ở lại chờ.

Qua mấy hôm, người canh cổng báo có chàng họ Diệp đến, ông mừng quá, ra đón mà hỏi han.

Chàng nói:

– Vì cái bệnh của thân hèn để đại nhân phải chờ đợi lâu, lòng này thật áy náy không yên. Nay, may đã có thể ráng theo kịp dấu giày chân ngựa.

Ông bèn gói buộc hành trang lại, để dậy sớm ra đi.

Chẳng mấy ngày đã về đến làng, ông cho con thụ giáo với chàng, đêm ngày ở liền bên cạnh.

Cậu con tên là Tái Xương lúc bấy giờ mới mười sáu tuổi, chưa biết làm văn chương nhưng thông minh lắm, phàm văn bài cử nghiệp, xem qua hai ba lần thì không quên nữa. ở được một năm, cậu đã hạ bút thành văn, nhờ có thêm thế lực của ông, bèn được nhận vào nhà học của huyện.

Chàng bàn chép lại những bài văn cử nghiệp đã làm lúc bình thời đem hết cho công tử học.

Vào trường thi, bảy đầu đề không sai đề nào, công tử liền đậu á khôi.

Một hôm ông bảo chàng rằng:

– Túc hạ chỉ vứt ra một mối tơ thừa mà cũng đủ làm cho thằng trẻ nên đanh, nhưng còn quả chuông vàng kia cứ bị bỏ rơi mãi thì làm thế nào?

Chàng nói:

– Ðiều đó e rằng có mệnh. Tôi mượn cái phúc trạch của đại nhân để hà hơi cho văn chương, khiến người thiên hạ biết rằng nửa đời luân lạc không phải vì kém tài đánh trận, như thế là thỏa nguyện rồi. Vả chăng kẻ sĩ mà được một người biết, đã đủ không ân hận nữa, cần gì phải đỗ đạt mới đắc chí?

Ông thấy chàng xa nhà đã lâu, sợ nhỡ mất kỳ sát hạch năm, khuyên chàng nên về thăm nhà. Chàng rầu rĩ không vui. Ông cũng không nỡ ép, bèn dặn công tử khi đến kinh đô thì nạp thóc hộ chàng, công tử lại giật giải Nam Cung được bổ chức Chủ sự trong bộ, đem chàng vào Giám sớm tối gần nhau.

Qua một năm, chàng vào trường thi Hương ở kinh, đỗ Cử nhân.

Vừa lúc ông được bổ đi coi thi ở Hà Nam bàn nhân tiện nói với chàng rằng:

– Chuyến đi này không xa quê hương tiên sinh là mấy. Nay hãy nhẹ bước đường mây, tiên sinh cũng nên một phen về làng cho được khoái chí.

Chàng cũng mừng. Rồi chọn ngày tốt lên đường.

Ðến địa giới Hoài Dương, công tử cho người và ngựa đưa chàng về.

Ðến nhà thấy cổng ngõ tiêu điều, chàng chạnh lòng buồn bã lững thững đi vào sân.

Người vợ cầm nong nia đi ra, thấy chàng thì vứt xuống sợ hãi bỏ chạy.

Chàng rẫu rĩ mà nói:

– Ta bây giờ đã nên danh phận rồi. Mới ba bốn năm không thấy mặt, sao bông như không quen biết nhau vậy?

Người vợ đứng xa mà bảo rằng:

– Chàng chết đã lâu, còn nói nên danh nên phận gì nữa?

Sở dĩ còn để mãi linh cữu trong nhà, là vì nhà nghèo con bé đó mà thôi! Nay thằng cả đã khôn lớn, cũng đang tìm một ngôi đất để đưa chàng ra. Chớ nên hiện về làm gở để quấy người sống.

Chàng nghe nói thì bùi ngùi rũ rượi, bàn lững thững đi vào trong nhà, thấy linh cữu rành rành, liền ngã ra giữa đất mà biến mất.

Người vợ kinh hãi nhìn xuống thấy áo mũ giày tất bỏ đấy, như cái xác lột. Nàng mũi lòng quá, ôm xống áo khóc lóc. Người con đi học về, thấy một cỗ xe ngựa buộc ở trước thì dò hỏi xem ở đâu đến, rồi kinh hãi chạy về báo với mẹ.

Mẹ gạt nước mắt kể lại chuyện vừa xảy ra. Lại hỏi kỹ những người theo hầu mới biết rõ đầu đuôi.

Người theo hầu trở về, công tử nghe tin nước mắt rơi ướt cả ngực, lập tức lên xe, đến tận nhà mà khóc, rồi bỏ tiền lo liệu việc tang, chôn cất theo lệ hiếu liêm.

Lại chu cấp rất hậu cho đứa con, mời thầy về dạy và gửi gắm cho quan học sứ, hơn một năm sau được vào nhà học phán

Dịch Giả : Cao Xuân Huy
0

THƯ SINH HỌ DIỆP – Bồ Tùng Linh


Miền Hoài Hương có chàng thư sinh họ Diệp, không rõ cả tên và tự. Văn chương từ phú trội nhất đương thời, nhưng đến đâu cũng lận đận, long đong khốn khổ mãi trong trường công danh.

Gặp lúc ông Ðinh Thừa Hạc, người Ðông Quan, đến làm quan ở ấp ấy, xem văn chương của chàng, cho là kỳ tài, bèn mời đến đàm đạo.
0

ĐẠO SĨ NÚI LAO – Bồ Tùng Linh


Trong huyện có chàng họ Vương, vào hàng thứ bảy, là con nhà cố gia, tuổi trẻ mộ đạo.

Nghe nói núi Lao Sơn có nhiều tiên ở, liền quẩy tráp đi thăm.

Trèo lên một ngọn núi thấy có đạo quán thật u nhã.

Một vị đạo sĩ ngồi trên tấm bồ đoàn (chiếc chiếu đan bằng cỏ bồ, hình tròn, để người đi tu hành quỳ hoặc ngồi cho êm, mỗi khi hành lễ) tóc trắng rủ xuống tận cổ, nhưng dáng vẻ thư thái, tinh thần trông thật sắc sảo.

Vương liền khấu đầu, bắt chuyện, thấy đạo lý rất huyền diệu, bèn xin thờ làm thầy.

Ðạo Sĩ nói:

– Chỉ sợ quen nhàn rỗi, không chịu nổi khó nhọc thôi.

Vương hứa là: “Ðược”

Học trò Ðạo Sĩ đông lắm, gần tối mới kéo hết về.

Vương cùng họ cúi đầu làm lễ, rồi lưu lại trong quán.

Sáng tinh sương, Ðạo Sĩ gọi Vương, đưa cho cái búa, bảo theo đám học trò đi hái củi.

Vương kính cẩn vâng lời.

Ðược hơn một tháng, tay chân phồng rộp thành chai, cực khổ không chịu nổi, Vương đã ngầm có bụng muốn về.

Một buổi chiều, trở về, thấy hai người khách đang cùng thầy uống rượu.

Trời đã tối mà chưa thấy đèn lửa gì cả.

Thầy bèn cắt một miếng giấy như hình cái gương, dán lên vách.

Phút chốc, ánh trăng vằng vặc soi sáng khắp nhà, trông rõ từng sợi tơ, cái tóc.

Ðám học trò chạy quanh hầu hạ.

Một người khách nói:

– Ðêm này đẹp trời có thể vui chi, nên cho ai nấy cùng vui.

Bèn lấy hồ rượu lên bàn, chia cho các học trò, lại dặn nên uống thật say.

Vương nghĩ bụng: Bảy tám người một hồ rượu, làm sao cho đủ khắp được?

Mỗi người đều đi tìm chén, bát , tranh nhau rồi uống trước, chỉ sợ rượu trong hồ hết mất. Thế mà rót hết lần này lượt khác, vẫn chẳng vơi đi chút nào. Bụng thầm lấy làm lạ.

Giây lát, một vị khách nói:

– Ðã làm ơn ban cho ánh sáng trăng, mà lại chỉ tịch mịch uống suông. Sao không gọi Hằng Nga xuống chơi?

Ðạo sĩ bèn lấy một chiếc đũa, vứt vào trong trăng. Bỗng thấy một người đẹp từ trong vùng ánh sáng bước ra: mới đầu chưa đầy một thước, xuống đến đất thì cao lớn như người thường, lưng thon nhỏ, cổ trắng muốt, phấp phới múa khúc Nghê thường.

Rồi ca rằng:

Tiên tiên nào!

Về đây nao!

Giữ ta mãi chốn Quảng Hàn sao!

Âm thanh trong trẻo, cao vút, nghe hay như tiếng tiêu, tiếng sáo. Ca xong, uốn lượn mà đứng lên, rồi nhảy lên mặt bàn, ngoảnh đi ngoảnh lại, đã biến trở lại thành chiếc đũa.

Ba người cùng cười lớn.

Lại một vị khách nói:

– Ðêm nay vui quá, nhưng uống vẫn chưa đã. Có thể đãi rượu tiếp chúng tôi trên cung nguyệt được chăng?

Ba người bàn rời chiếu tiệc bước vào dần trong trăng.

Mọi người nhìn thấy rõ cả ba đang ngồi trong trăng uống rượu: râu, lông mày, đều trông thấy hết, như bóng hiện trong gương.

Một chốc, ánh trăng mờ dần; đám học trò châm đèn mang đến thì một mình Ðạo Sĩ còn ngồi đấy mà khách đã biến đâu mất.

Trên bàn thức nhắm hãy còn. Mà mặt trăng trên vách chỉ còn là miếng giấy tròn như tấm gương mà thôi.

Ðạo Sĩ hỏi:

– Mọi người đã uống đủ cả chưa?

Các học trò cùng thưa:

– Ðủ cả.

– Ðủ rồi thì nên đi ngủ sớm, đừng làm lỡ việc kiếm củi ngày mai.

Chúng học trò đều “vâng” mà lui ra.

Vương lòng thầm thích thú, hâm mộ, bụng muốn về lại tiêu tan.

Lại một tháng nữa, khổ không thể nào kham nổi, mà Ðạo Sĩ tuyệt không truyền dạy cho một phép nào.

Sốt ruột không chờ được nữa, Vương bèn lên cáo từ rằng:

– Ðệ tử này vượt mấy trăm dặm đường đến đây thụ nghiệp với thầy; dẫu chẳng học được cái thuật trường sinh bất tử, thì cũng mong thầy cho chút gì gọi là h tấm lòng cầu học. Thế mà qua hai ba tháng, chỉ những sáng đi kiếm củi, tối lại trở về.

Hồi còn ở nhà, đệ tử chưa bao giờ phi chịu khổ như thế.

Ðạo Sĩ cười bảo:

– Ta vẫn nói là anh không kham nổi khó nhọc, nay đã quả nhiên. Sáng mai, sẽ cho anh về:

Vương nói:

– Ðệ tử làm lụng đã bao ngày, xin thầy dạy qua cho một thuật mọn, khỏi phụ công lao đệ tử lặn tới tới đây.

Ðạo Sĩ hỏi:

– Muốn học thuật gì?

Vương đáp:

– Thường thấy thầy đi đâu, tường vách không ngăn được. Chỉ xin một phép cũng đủ.

Ðạo Sĩ cười nhận lời. Bèn đem một bí quyết truyền cho, bảo miệng đọc mấy câu thần chú xong rồi hô: “Vào đi!” Vương đối diện với một bức tường mà không dám vào.

Ðạo sĩ lại nói:

– Cứ vào thử đi!

Vương theo lời, thong thả tiến lại, đến tường thì bị vấp. Ðạo Sĩ bảo:

– Cúi đầu, vào cho nhanh, đừng lần chần!

Vương quả quyết, đứng cách tường mấy bước, lao nhanh tới. Gặp tường, cảm thấy trống không có vật gì cả.

Quay lại thì đã thấy mình ở bên kia tường rồi.

Vương mừng quá, vào lạy tạ.

Ðạo Sĩ bảo:

– Về nhà nên giữ mình đứng đắn, không thế thì phép không nghiệm nữa đâu.

Nói rồi cấp lộ phí cho mà về.

Ðến nhà, chàng khoe đã gặp tiên, tường vách dày đắn đâu cũng không ngăn được mình.

Vợ không tin.

Vương làm đúng như lời đạo sĩ đã dạy, đứng cách tường mấy bước, chạy ù vào. Ðầu đụng phải tường cứng, bỗng ngã lăn đùng.

Vợ Vương đỡ dậy, nhìn xem, thấy trán đã sưng lên như một quả trứng lớn.

Vợ Vương đưa ngón tay lêu lêu, diễu cho.

Vương vừa thẹn vừa ức, chỉ biết chửi lão Ðạo Sĩ bất lương mà thôi.

Liêu trai chí dị, Nguyên Tác : Bồ Tùng Linh
Dịch Giả : Nguyễn Ðức Lân
0

ĐẠO SĨ NÚI LAO – Bồ Tùng Linh


Trong huyện có chàng họ Vương, vào hàng thứ bảy, là con nhà cố gia, tuổi trẻ mộ đạo.

Nghe nói núi Lao Sơn có nhiều tiên ở, liền quẩy tráp đi thăm.

Trèo lên một ngọn núi thấy có đạo quán thật u nhã.

Một vị đạo sĩ ngồi trên tấm bồ đoàn (chiếc chiếu đan bằng cỏ bồ, hình tròn, để người đi tu hành quỳ hoặc ngồi cho êm, mỗi khi hành lễ) tóc trắng rủ xuống tận cổ, nhưng dáng vẻ thư thái, tinh thần trông thật sắc sảo.

Vương liền khấu đầu, bắt chuyện, thấy đạo lý rất huyền diệu, bèn xin thờ làm thầy.
0

Ðảng “cánh buồm đen” – Sơn Nam

Từ thuở nhỏ, Sáu Bộ theo một người bạn lên núi Cô Tô để học đạo nhưng không có đạo nào quyến rũ anh được lâu dài. Hết đạo Ớt qua tới đạo Ðất; từ giã ông đạo Ðất, anh đến thọ giới tại cốc của ông đạo Nằm. Chán ông đạo Nằm, anh đi lang thang qua núi Dài với ý định cuốc đất làm rẫy. buổi chiều đó, anh ngồi trên phiến đá, mắt đăm đăm nhìn cảnh núi rừng, chợt thấy một ông lão râu tóc bạc phơ, tay chống gậy trầm hương từ từ đi lại. Ðoán chừng đó là một trong số trăm ngàn đạo sĩ ở vùng Thất Sơn này, anh không để ý cho lắm. Nhưng ông lão nọ bỗng sừng bước trước mặt anh, nhịp gậy xuống đất ba lần, cười lên ba tiếng lớn mà rằng:

Chim bay về núi tối rồi.

Sao không lo liệu còn ngồi chi đây?

Anh đứng dậy, chắp tay chào. Ðạo sĩ ung dung nói:

– Chưa nghe lời ta ư? Thời kỳ này là thời kỳ “mạt pháp”… Chim đã bay về núi, trời đã tối.

Anh đáp:

– Con chưa hiểu rõ. Bạch đạo sĩ, “mạt pháp” nghĩa là thế nào? Phải chăn mạt pháp là người Pháp tàn mạt?

Ðạo sĩ gật đầu:

– Khá khen cho con. Hiềm vì con có chí mà thiếu tài. Nghe con nói, bần đạo vui vẻ biết mấy như giữa trưa nắng mà uống được nước Cam lồ. Mạt pháp có nghĩa là thời kỳ giáo pháp suy đồi, đạo đức của tiền nhân không còn được thịnh. Tại vì nhân tâm rối loạn ư? Cũng phải. Tại vì bọn Phù Lang Sa ư? Thậm phải… Con hiểu sai nhưng mà nói đúng.

– Bạch đạo sĩ, đó là chuyện quốc sự của kẻ còn nặng lòng trần tục.

– Nhưng ở đây chúng ta chưa phải là tiên. – đạo sĩ nói.

Ðuối lý, anh cố suy nghĩ để trả lời. Ðạo sĩ nói tiếp:

– Thời buổi mạt pháp nầy chưa có ai thành tiên hoặc gặp tiên được. Ai nói ngược lại tức là dối mình, dối người, dối với non cao, dối với bể rộng… Muốn thành tiên thì phải dày công tu luyện để ngày kia giữ được chức vị cao.

– Bạch đạo sĩ, công tu luyện ấy như thế nào… Chức vị ấy gọi là chi?

Ðạo sĩ nói lớn:

– Gọi là chức vị “chặt đầu Tây”. Con nghe chưa? Con nghe chưa? Xưa kia đức Nguyễn Trung Trực phá Kiên giang. Lúc sa cơ, Người không mảy may úy tử. Trước pháp trường, giặc khuyến dụ trăm điều, hứa ban cho… ôi thôi bao nhiêu là bạc vàng, chức vị! Người cả cười, chỉ xinh thọ lãnh một chức vị: chức nào mà Người có quyền chặt đầu tất cả bọn Tây.

Giọng đạo sĩ như nghẹn ngào:

– Hỡi ôi! Dũng tướng đã rơi đầu mà lời vàng ngọc nọ mãi rền vang trong lòng người, khắp non cao biển rộng… Chặt đầu Tây! chặt đầu Tây!

Dứt lời, đạo sĩ quay mình. Gió thổi mạnh. Lá rừng cát núi bốc lên xoay tròn mờ mịt như khỏa dấu chân, che dáng hình của đạo sĩ. Anh Sáu Bộ tất tả chạy theo, đôi mắt chóa lòa như vừa sống trong một giấc chiêm bao mầu nhiệm.

– Sư phụ! Cúi xin sư phụ thương con!

Giữa muôn trùng cỏ cây, anh chỉ nghe đá núi vọng lại:

– Chặt đầu Tây! Lời ấy không phải của ta nói. Con nghe không? Lời ấy của trời đất nói.

Thế là năm năm sau, chàng trai trẻ ấy xuống núi. tên Sáu Bộ được sửa lại là Tư Hiền, Tư Hiền chỉ mang theo cây roi dài một thước tám, bằng cây trắc. Với cây roi ấy và đường quờn Lưu Thủy, anh nghiễm nhiên trở thành chúa đảng Cánh Buồm Ðen, hùng cứ từ mũi Cà Mau đến hải phận Hà Tiên.

Sáng tinh sương,. Như thường lệ, Tư Hiền định cho ghe chạy dài theo mé biển. Vừa tách khỏi hòn Tre, gió nam thổi xuôi đưa anh về phía hòn Sơn Rái.

Kìa, một chiếc ghe trôi bềnh bồng theo sóng, lá buồm sụ xuống, cột buồm đứt hết dây chằng. Lập tức anh cập lại đoán có người vừa bị nạn. Trong ghe nọ chỉ thấy một ông lão nằm mê man bất tỉnh. Sau khi được cạy miệng uống hớp nước lạnh, ông tỉnh lại nhìn dáo dác:

– Ông đây là ai?

Tư Hiền đáp:

– Tôi là người đi mò ngọc điệp ở hòn Nhạn.

Ông lão khóc nức nở:

– Ăn cướp đánh tôi. Cha con tôi đi Rạch Giá bán tôm khô, về ngang đây bị nó chận lại giựt hết tiền, bắt luôn con gái; hẹn ba ngày sau đem trả lại.

Tư Hiền nói:

– Nó đi hướng nào? Lâu mau rồi? Tôi bắt tụi bất lương này đem về lập tức cho ông coi.

Tức thời buồm mũi và buồm lái xổ ra. Tay anh siết dây lèo thượng. Ghe phóng nhanh tới. Không mấy chút, đã thấy một đốm đen trước mặt.

anh thét to:

– Tụi bây coi tao!

Chiếc ghe trước vẫn giương hai cánh buồm màu đen chạy ngạo nghễ, khinh thường. Anh cho ghe sát lại, nhảy qua quơ roi đánh mạnh khiến sợi dây chằng ghe nọ phải đứt.

Buồm sụ xuống. Ghe chạy đảo nghiêng gần chìm.

Nghe vù một tiếng, Tư Hiền vội né mình. Biết rằng gặp tay đối thủ lợi hại, anh bình tĩnh chống đỡ. Chợt liếc phía sau, thấy ngọn lao phóng tời, anh lách qua. Ngọn lao đâm trúng bẹ ghe, ghìm sâu vào, tên nọ lỡ trớn té xuống biển.

– Biết ta là ai chưa?

Chưa dứt lời, Tư Hiền đã gài ngọn roi của tên còn lại xuống sạp. Hắn cố sức gỡ lên nhưng không xuể, rốt cuộc đành quì xuống:

– Nói thiệt với ông, tôi là ăn cướp biển. Lâu nay tôi từng gặp nhiều người tài giỏi nhưng chưa ai bằng ông. Tên thiệt tôi là Năm Bùn.

Tư Hiền đáp:

– Tại sao đánh một người già cả, nghèo hơn mình? Con gái của người ta mày giấu ở đâu? Mau trả lại. Ðồ du côn!

Năm Bùn năn nỉ:

– Trăm sự chỉ vì tôi chưa hiểu. Cô đó tôi giấu dưới khoang hầm.

Tư Hiền rất đỗi ngạc nhiên khi thấy nhan sắc khá lộng lẫy của cô nọ. Cô quì xuống lạy tạ ơn. Lập tức, anh bèn đưa cô sang ghe mình. Sau khi nhận lời hứa tái ngộ với Năm Bùn tại hòn Ðá Bạc, anh cho thuyền trở về gặp ông lão nọ.

Ðêm ấy anh ăn cơm ở Rạch Cóc, tại nhà ông lão. Nhơn bữa ăn, anh nhận thấy ông lão có ý tạ ơn mình bằng cách gả con gái cho, nếu anh muốn. Anh viện nhiều lẽ để từ chối. Trước lòng chân thành của gia đình, anh hứa sẽ trỡ về cưới, sau một thời gian hai năm.

– Kim Thoa! Ðừng buồn nghe em. Anh thề chết sống gì cũng trở lại cưới em làm vợ. Bây giờ anh phải ra đi. Anh đi sao thì về vậy…

Từ giã xong. Tư Hiền cho ghe tách bến, nhắm hướng hòn Ðá Bạc đúng theo lời hứa với Năm Bùn.

Thấy ghe của Tư Hiền đến đúng hẹn, Năm Bùn vô cùng mừng rỡ, khâm phục và ra lịnh cho bộ hạ phải nghiêm chỉnh đón chào.

Ðể tỏ lòng thành thật của mình, Tư Hiền đi hai tay không, để cây roi dưới ghe. Chào hỏi xong xuôi anh nhờ Năm Bùn cho bộ hạ lấy roi lên giùm mình. Lúc ăn uống, Tư Hiền ao ước được thưởng thức võ nghệ của đảng Cánh Buồm Ðen. Ðể đáp tạ, anh biễn diễn cho ai nấy xem một đường roi Lưu Thủy đã học được trên núi. Lúc biểu diễn, người ở ngoài tự do ném đá hoặc phóng dao vào thử. Ngọn roi xoay chung quanh mình anh như nước chảy không dứt, không rời, chớp nhoáng như gió…

Kết quả là Năm Bùn sẵn sàng giao đảng Cánh Buồm Ðen cho Tư Hiền làm đảng trưởng. Nhờ vậy đảng được chỉnh đốn lại.

Hằng ngày, các bộ hạ phải luyện tập võ nghệ cho tinh thông, cấm tuyệt không xâm phạm tài sản của người chài lưới ở ven biển. Hai kẻ thù chánh cần đánh đổ không nương tay là đoàn tàu “đoan” của Tây và ghe buôn lậu Hải Nam.

Từ đó về sau, nhiều tin tức mới lạ được làm đầu đề bàn tán cho dân chúng miền duyên hải Rạch Giá, Cà Mau:

– Trời ơi! Hai thằng con trai của ông X. bị ghe Hải Nam bắt, tưởng biệt tích… Ai dè mấy ông Buồm Ðen giựt lại được.

– Sáng hôm qua, có cái chưn vịt tàu của tụi “tàu cáo” để sẵn trên sân chợ. Tây hoảng hồn nhìn ra đó là chưn vịt của chiếc ca nô tuần biển đi mấy bữa rày chưa thấy về.

– Mấy ông Buồm Ðen đốt ghe Hải Nam ở hòn Nhạn. Bên này chết ba, bên kia chết trọn tàu…

Ba năm sau, có tin đảng Cánh Buồm Ðen đã rã.

Người đồn rằng: Chúa đảng vì quá giàu có nên trốn qua Xiêm. Không tán thành ý đó, kẻ khác quả quyết rằng chính mắt mình đã thấy xác chúa đảng trôi tấp vào bãi. Từ sáu tháng nay, đảng Cánh Buồm Ðen là đảng giả mạo.

Gia Ðình của cô Kim Thoa khổ tâm hơn hết. Một đêm lạnh lẽo nọ, có tiếng gõ cửa. Tư Hiền bước vào, ôm ghì lấy người hôn thê:

– Anh phải về, không bao giờ anh làm nghề này nữa.

– Tây tập nã anh, phãi không?

– Số là anh vừa giết oan một người. Tụi ghe Hải Nam lên hòn để mua heo, chừng kéo neo chúng không chịu trả tiền; anh đánh chết năm đứa. Nhưng rủi thay gặp một đứa biết võ nghệ khá cao. Anh đánh roi xuống. Nó đứng trên bãi, đưa roi lên đỡ trúng. Ngặt anh xuống tay mạnh quá, nó lún xuống bùn, ngã lăn trào máu miệng. Lúc hấp hối, nó ngoắc anh lại mà nói: “Tôi không phải chủ ghe. Tôi ở mướn mãn đời, giết tôi mà chi!”. Cảm động quá, anh cúi xuống xin lỗi nó, nó khoát tay anh ra, nói tiếp: “Tôi tha lỗi thì được. Còn vợ con tôi ở Hải Nam cũng đương làm mướn, Làm sao anh xin lỗi được…”

Kim Thoa! Em nghe anh nói lại chưa? Ðây là lần đầu tiên trong đời mà anh đau đớn nhứt. Anh giết oan người ta. Ngọn roi này, anh xuống tay mạnh quá, bị ô uế rồi. Tội nghiệp, chết không nhắm mắt mà ngón tay hắn còn chỉ về phía biển khơi, nơi quê vợ con. Thấy phận người mà nhớ tới phận mình, anh vội về đây.

o0o

tháng hai năm 1946. Có tin: Tây trở lại chiếm gần tới Rạch Giá, chúng đã nhảy dù xuống biên giới Việt Miên gần núi Sam, Châu Ðốc. Dân chúng sục sôi căm hờn tập trung lại ngọn Cái Bắc để bày mưu kế. Có đến trên ba mươi thanh niên tình nguyện đi bắt sống bọn Tây nhảy dù ở xa cách quê nhà hằng hai trăm cây số. Họ thiết lập một bàn thờ Tổ quốc giữa rừng, lấy củi tràm đốt thế cho trầm hương và mượn mặt bất để làm đỉnh đồng. Y phục của họ khác nhau, nhưng giống nhau ở chất vải màu luốc luốc, chứa chấp bao nhiêu rận. Giữa quang cảnh mộc mạc, thiêng liêng đó, người ta thấy một ông lão râu tóc bạc phơ chống cây gậy cao khỏi đầu bước ra.

Ai nấy thầm thì:

– Ông Năm Lập thợ câu của xóm mình!

Ông lão nọ bỗng rưng rưng nước mắt:

– Không! tôi không phải Năm Lập. Tên thiệt của tôi là Sáu Bộ. Có mấy năm đó, tôi lấy danh hiệu Tư Hiền, cầm đầu đảng Cánh Buồm Ðen.

– Trời! Chúa Ðảng là đây sao?

– Nói thiệt với bà con, tôi mai danh ẩn tích. Hôm nay tôi phải ra mặt. Nếu ngồi ì ở nhà, không ai làm gì tôi, nhưng tôi cảm thấy nhục nhã như thiếu món nọ gì đối với trời đất, núi non. Nếu xét tôi có tội, anh em cứ giết tôi để tế cờ. Bằng không thì cho phép tôi truyền lại bí quyết nhiệm mầu của đường Lưu Thuỷ mà thầy tôi dạy hồi năm mươi năm trước. Ðường quờn này ít ai biết lắm, lúc tôi diễn, bà con cứ ném cây, phóng dao vô mà không bao giờ trúng tôi.

Ông đứng thẳng người, hai tay chắp cây roi lên bái tổ rất kính cẩn. Rồi thì vút một tiếng, ngọn roi xoay tròn che lấp thân ông như dải lụa, như nước từ trên thác tuôn xuống chấp chóa. Ðến kẻ ngỗ nghịch nhứt cũng không dám ném cây vào để thí nghiệm như ông cho phép.

Lại một cuộc bàn tán náo nhiệt, vô trật tự:

– Học được đường quờn của ổng, chắc Tây về nước rồi. Thời giờ cấp bách lắm!

– Ði bắt “Tây nhảy dù” chỉ cần thanh niên lanh lẹn. Ông đi không được đâu. Ðể tụi tôi đốn tầm vông vạt nhọn, lẹ hơn…

Giọng ông lão nói ngậm ngùi:

– Không lẽ tôi tự vận. Bà con thương tôi. Nó là cây roi có chức vị “chặt đầu Tây” của tổ sư tôi truyền lại ở núi Dài, năm đó.

– Thôi, lộn xộn quá. Ông cho tôi cây roi này để làm cán mác thì hợp thời hơn, chặt vắn lại vài tấc, đầu kia tra lưỡi mác thông. Có chất sắt thêm vô, ngọn roi của ông mới xài được. Tôi biết là hư cây roi, uổng lắm nhưng ông chịu phiền.

– Ừ. Làm gì thì làm, miễn dùng nó được thì thôi. Thiếu củi nấu cơm, chặt khúc nó mà chụm, lão đây cũng không tiếc. Mấy cháu biết không? Ðây là thời kỳ mạt pháp.

Ðoàn quân ra đi gấp. Làm sao họ có thời giờ để hỏi han ông về một đôi danh từ xa lạ đó? Họ tản ra bốn hướng trời, ít người được trở về xóm cũ. Sau đó vài tháng, giặc vào đốt xém. Ông lão nọ chết vì không chịu tản cư, lưu lại một tình cảm lạ lùng, khó dứt khoát đối với những ai chưa hiểu rõ hoàn cảnh đặc biệt của phần đất Cà Mau tận cùng này.

SƠN NAM
0