kimluc
Hiển thị các bài đăng có nhãn Triết học. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Triết học. Hiển thị tất cả bài đăng

Quan điểm triết học Trung Hoa cổ đại về mô hình nhà nước lý tưởng

Trong tiến trình phát triển lịch sử triết học, nhà nước là một trong những vấn đề thu hút sự nghiên cứu của nhiều trào lưu triết học, nhiều triết gia từ cổ đại đến hiện đại.


Trung Quốc là một trong những nền văn minh xuất hiện sớm và rực rỡ nhất, đồng thời đây cũng là một trong 3 “cái nôi” đầu tiên xuất hiện triết học (cùng với Ấn Độ và Hy Lạp). Cho đến tận bây giờ, người ta vẫn chưa thể lý giải được tại sao thời kỳ Xuân Thu- Chiến Quốc ở Trung Quốc khi công cụ bằng sắt chưa phổ biến, sản xuất chưa phát triển đã có quốc gia phong kiến và là thời kỳ “bách gia chư tử, bách gia tranh minh”( chư tử tranh minh khai học thức, bách hoa tề phóng tụ thanh phương)- thời kỳ học thuật phát triển như “nấm mọc sau cơn mưa”. Và dấu ấn rõ nhất của nền triết học Trung Quốc cổ đại để lại, còn ảnh hưởng sâu sắc đến ngày nay đó chính là quan điểm về mô hình nhà nước- quốc gia lý tưởng của một số trường phái triết học tiêu biểu: Nho gia (Khổng Tử); Đạo gia (Lão Tử); Mặc gia (Mặc Tử) và Pháp gia (Hàn Phi Tử).

Một trong những đặc điểm nổi bật nhất của triết học Trung Quốc cổ đại , đó là vừa thống nhất vừa đa dạng. Xuất phát từ điều kiện lịch sử xã hội đương thời: chiến tranh loạn lạc triền miên, các chư hầu đều muốn thôn tính lẫn nhau, dẫn tới sự bất ổn xã hội. Các trường phái triết học Trung Quốc thời cổ đại đều hướng đến mục đích nhằm ổn định xã hội, chấm dứt chiến tranh, kiến lập nên một chế độ ổn định lâu dài: Nho gia đưa ra đường lối chính danh, đức trị; Mặc gia với thuyết kiêm ái; Đạo gia với chủ trương vô vi; ở Pháp gia là đường lối pháp trị triệt để. Đa dạng ở chỗ mỗi trường phải trên đều có những chủ trương, đường lối của riêng mình trong việc đề ra những biện pháp cải tạo xã hội.

Thời đại Khổng Tử là thời đại “vương đạo suy vi”; “bá đạo” đang nổi lên lất át vương đạo của nhà Chu; trật tự lễ pháp cũ của nhà Chu đang bị đảo lộn, như ông than rằng “vua không phải đạo vua, tôi không phải đạo tôi; cha không phải đạo cha, con không phải đạo con”. Từ đó, ông chủ trương lặp lại pháp chế kỷ cương của nhà Chu với nội dung mới cho phù hợp . Từ đây, Khổng Tử đề ra mô hình nhà nước- quốc gia lý tưởng. Đó là xã hội phong kiến, nhà nước phong kiến theo điển chế của nhà Chu rất có trật tự tôn ti; từ thiên tử tới các chư hầu lớn nhỏ, quí tộc, bình dân ai có phận nấy, có quyền lợi và nhiệm vụ sống hòa hảo với nhau, giúp đỡ lẫn nhau, giữ chữ tín với nhau, không xâm phạm nhau, ai cũng phải tu thân nhất là hạng vua chúa vì ngoài bổn phận dưỡng dân- lo cho dân đủ ăn đủ mặc thì còn có bổn phận giáo dân bằng cách làm gương cho họ và bằng lễ, nhạc, văn, đức. Bất đắc dĩ mới dùng tới hình pháp. Xã hội đó lấy gia đình làm cơ sở, trọng hiếu đễ, yêu trẻ, kính già để các giai cấp hòa hợp nhau, trên không hiếu dưới, dưới không oán trên. Đó là xã hội “tiểu khang” ( Thuật ngữ “tiểu khang” hiện nay đã được đưa vào trong nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 18 với mục tiêu xây dựng xã hội Trung Quốc “tiểu khang”- xã hội khá giả toàn diện trên cơ sở mối quan hệ tông tộc- gia đình, dòng họ).

Mặc gia với đại diện tiêu biểu là Mặc Tử chủ trương “kiêm ái”, muốn mọi người cùng thương yêu nhau và làm lợi cho nhau; mơ ước xây dựng một xã hội trong đó mọi người không có sự phân biệt sang- hèn, trên- dưới. Ông chủ trương nhà nước phải dùng người có tài, muốn xây dựng một quốc gia thống nhất, quyền hành tập trung vào một người tài đức do dân cử lên, không có đảng phái, tư tưởng từ trên xuống dưới nhất loạt như nhau, ai cũng lo lợi chung của đồng bảo, xã hội; dân đông đúc mà đủ ăn đủ mặc, cần và kiệm, không có sự xa hoa, muốn được “chính bình dân an”- thế giới đại đồng. Tư tưởng trên có điểm tương đồng với học thuyết xây dựng chủ nghĩa cộng sản của Mác-Ăngghen-Lênin với tư tưởng “của cải chung, mọi người sống bình đẳng, bác ái”.

Ngược lại với học thuyết xây dựng mô hình nhà nước-quốc gia lý tưởng của Nho gia (Khổng Tử) và Mặc gia( Mặc Tử), Đạo gia với đại diện tiêu biểu nhất là Lão Tử lại chủ trương “vô vi”. Trong Đạo đức kinh, chương thứ 80, Lão Tử đã phác họa ra mô hình quốc gia lý tưởng với những đặc điểm: Nước nhỏ, dân ít. Dù có khí cụ gấp trăm sức người cũng không dùng đến. Ai nấy đều coi sự chết là hệ trọng nên không đi đâu xa. Có thuyền xe mà không ngồi, có binh khí mà không bày. Bỏ hết văn tự, bắt dân dùng lại lối thắt dây thời thượng cổ. Thức ăn đạm bạc mà thấy ngon, quần áo tầm thường mà cho là đẹp, nhà ở thô sơ mà thích, phong tục giản phác mà lấy làm vui (nghĩa là chỉ lo ăn no mặc ấm, ở yên, sống vui, ghét xa xỉ). Các nước gần gũi có thể trông thấy nhau, nước này nghe được tiếng gà, tiếng chó của nước kia mà nhân dân các nước ấy đều già chết cũng không qua lại với nhau.

Còn phái Pháp gia (Hàn Phi Tử) lại muốn có một quốc gia thống nhất như Mặc Tử, quyền hành tập trung vào một người là vua (không do dân cử mà cũng chẳng cần có đức chỉ cần biết thuật trị người); kinh tế phải khuếch trương (phát triển) để cho nước mạnh mà chiến thắng được những nước khác, không cần văn hóa cho cao, chỉ cần nông phẩm và binh khí cho nhiều; vua chẳng cần thi ân huệ, dạy dân, cứ ngất ngưởng ngồi trên mà điều khiển guồng máy bằng cách áp dụng pháp luật một cách nghiêm khắc và công bằng, không chút tư vị (dù là với người thân, vì vua không thân với ai hết; kể cả cha mẹ, vợ con). Đây chính là lý tưởng “quốc cường quân tôn”. Hàn Phi Tử chỉ rõ: cái thiết yếu của pháp luật là ở chỗ phải trình bày rõ ràng, trình bày công khai ra chỗ trăm họ; ai giữ pháp luật cẩn thận thì thưởng, ai trái pháp lệnh thì phạt công minh. Ông nêu yêu cầu các nước cần kiên trì, kiên quyết đổi mới chế độ chính trị theo con đường pháp trị để quốc gia đất nước được cường thịnh (tư tưởng trên đã được nước Tần cuối thời Chiến Quốc thực thi triệt để đường lối pháp trị của Hàn Phi Tử đã trở thành nước hùng mạnh, thôn tính sáu nước lớn còn lại, lần đầu tiên thống nhất Trung Quốc trong lịch sử).

So sánh học thuyết về nhà nước- quốc gia lý tưởng của bốn trường phái triết học trên chúng ta thấy rõ: chủ trương của Nho gia (Khổng Tử) thực tế hơn Mặc gia(Mặc Tử); Đạo gia(Lão Tử); nhân bản hơn học thuyết của Pháp gia(hàn Phi Tử) và ảnh hưởng trong văn hóa Trung Quốc và văn hóa của chế độ phong kiến phương Đông hơn hai ngàn năm qua thì Nho gia có ảnh hưởng rõ nhất, sâu sắc nhất. Hạn chế chung cơ bản của bốn trường phái trên trong quan điểm về mô hình nhà nước-quốc gia lý tưởng ở chỗ: chỉ xuất phát từ lập trường giai cấp đề ra những chủ trương phiến diện, thậm chí là cực đoan- phi thực tế, ảo tưởng như tư tưởng của Lão Tử, Mặc Tử.

Tuy nhiên, từ quan điểm về mô hình nhà nước- quốc gia lý tưởng nêu trên của bốn trường phái, chúng ta có thể thấy rõ những điểm tiến bộ ưu việt: Ở Nho gia là tư tưởng ai ở địa vị nào thì làm tốt cương vị đó, coi trọng gia đình là nền tảng, danh phải chính ngôn mới thuận; thượng bất chính, hạ tắc loạn; mọi người cư xử với nhau bằng nhân, nghĩa, lễ..Ở Mặc gia là tư tưởng mọi người thương yêu nhau, cần cất nhắc và sử dụng người có thực tài trong sử dụng, bổ nhiệm, không phân chia bè cánh-đảng phải. Ở Đạo gia là tư tưởng coi trọng thiên nhiên, sống hòa mình, gần gũi với thiên nhên, theo qui luật của tự nhiên. Ở Pháp gia đó là tư tưởng đề cao tinh thần thượng tôn của pháp luật phải được thực thi trong mọi mặt của đời sống xã hội, là tinh thần độc lập tự cường quốc gia, dân tộc. Đó là những “hạt nhân hợp lý” trong học thuyết xây dựng nhà nước- quốc gia lý tưởng và có giá trị sâu sắc trong điều kiện hiện nay. Và suy cho cùng, muốn đánh giá một học thuyết, hay quan điểm triết học là tiến bộ hay không thì trước tiên phải đặt nó trong bối cảnh đương thời, thấy được nó là tiến bộ so với các triết thuyết khác, và sau một khoảng thời gian vẫn thấy nó còn hợp lý thì có thể coi triết thuyết ấy là vĩ đại, vượt tầm thời đại.

Theo LÊ CAO ĐỘ / TRUONGCHINHTRINGUYENVANLINHHY.ORG.VN
0

Vài suy nghĩ về vai trò triết học Hegel và ‘ý niệm tuyệt đối’

Georg Wilhelm Friedrich Hegel (1770 – 1881) là đại biểu vĩ đại nhất của triết học cổ điển Đức, đỉnh cao của triết học tư sản và của chủ nghĩa duy tâm thế kỷ XIX.



Có nhiều người cho rằng triết học Hegel là duy tâm, trừu tượng, thần bí, khó hiểu, và do đó không có giá trị gì, chỉ là “đồ bỏ đi”. Họ coi khinh Hegel, phê phán triết học Hegel vì tính chất duy tâm của nó. Rất bực mình và phản đối điều đó, Marx đã cộng khai tuyên bố mình là đồ đệ của Hegel, thậm chí còn “thích dùng lối diễn đạt đặc trưng của Hegel” (Lời tựa bộ “Tư bản”).

Lenin, trong “Bút ký triết học”, nói rằng có nhiều loại chủ nghĩa duy vật cũng như nhiều loại chủ nghĩa duy tâm, và khẳng định: “Chủ nghĩa duy tâm thông minh gần với chủ nghĩa duy vật thông minh hơn chủ nghĩa duy vật ngu xuẩn”.

Vả lại, trước Marx, nhưng nhà triết học nổi tiếng là duy vật của thế kỷ XVII – XVIII ở Anh và ở Pháp cũng vẫn chỉ là duy vật nửa vời “duy vật một nữa”, nghĩa là chỉ duy vật trong lĩnh vực tự nhiên, còn trong lĩnh vực xã hội thì họ cũng duy tâm. Hơn nữa, họ lại siêu hình, không lý giải được nguồn gốc, sự vận động và sự phát triển của thế giới khách quan. Chính đó là một lý do quan trọng làm cho chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII – XVIII bị chủ nghĩa duy tâm của triết học Đức phủ định.

Triết học Hegel là một thứ “chủ nghĩa duy tâm thông minh”, có những “hạt nhân hợp lý” và rất có giá trị, trở thành một trong những tiền đề trực tiếp của chủ nghĩa Marx, được các học giả và các nhà kinh điển của chủ nghĩa Marx – Lenin đánh giá rất cao.

Plekhanov, một người có học vấn uyên bác, từng được Lenin tôn làm thầy, đã đánh giá Hegel:”Chắc chắn sẽ mãi mãi được dành một trong những địa vị cao quí nhất trong lịch sử tư tưởng của nhân loại. Trong các khoa học mà người Pháp gọi là “khoa tinh thần và chính trị”, không có một khoa học nào là không chịu ảnh hưởng mãnh liệt và rất phong phú của thiên tài Hegel: “Phép biện chứng, logic học, luật học, mỹ học, lịch sử triết học và tôn giáo – tất cả những khoa học đó đều có một hình thức mới nhờ sự tác động của Hegel.

Hegel đã để lại cho nhân loại một di sản triết học khổng lồ với những tư tưởng cực kỳ phong phú và sâu sắc. Ông từng nói:”Cái triết học mới nhất của một thời đại là kết quả của hết thẩy các triết học đã có từ trước và phải bao gồm những nguyên lý của tất cả những triết học đó”. Chính ông đã thực hiện xuất sắc yêu cầu đó với việc phân tích, phê phán các trào lưu triết học, các triết gia trước ông và cùng thời với ông. Hệ thống triết học của Hegel đã bao quát nhiều lĩnh vực và phát triển nhiều tư tưởng phong phú và đặc sắc, có ý nghĩa vạch thời đại. Vì vậy, F. Engels đã khẳng định:”Nếu không có triết học Đức mở đường, đặc biệt là nếu không có triết học Hegel, thì chủ nghĩa xã hội khoa học Đức – chủ nghĩa xã hội khoa học duy nhất chưa hề có từ trước đến nay, sẽ không bao giờ được xây dựng nên”.

Hegel là nhà triết học duy tâm theo trường phái chủ nghĩa duy tâm khách quan, hay chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối. Như Lenin nhận xét, Hegel tin tưởng và nghĩ một cách nghiêm túc rằng chỉ có chủ nghĩa duy tâm mới là triết học, bởi vì triết học là khoa học về tư duy, cái chung, mà cái chung tức là tư tưởng. ông cho rằng, cơ sở của hết thảy mọi sự vật tồn tại, cái bản chất sâu sắc nhất của thế giới không phải là ý thức cá nhân, là “cái tôi” chủ quan, mà là một ý thức nói chung nào đó rất “khách quan”, tồn tại độc lập với con người, có trước tự nhiên và có trước loài người, luôn luôn vận động và biến đổi được ông gọi là “ý niệm tuyệt đối”.

Có thể nói, toàn bộ triết học của Hegel xoay quanh phạm trù ý niệm tuyệt đối và sự vận động của ý niệm tuyệt đối trong hệ thống triết học đồ sộ của ông được trình bày theo kiểu “suy lý ba bước” (tam đoạn luận).

Hegel cho rằng, ý niệm tuyệt đối là cái có trước tất cả mọi cái. Do có mâu thuẫn bên trong nên ý niệm tuyệt đối có sự tự vận động từ thấp lên cao, trải qua sự phát triển, thông qua các khái niệm, rồi lại trở về với nó với một sự phong phú hơn (logic học). Do có sự vận động và chuyển hoá, nên ý niệm tuyệt đối trở thành cái khác nó (tha hoá), đối lập với nó, tức là giới tự nhiên (triết học về tự nhiên). Ý niệm tuyệt đối tiếp tục vận động về với bản thân mình trong đời sống có ý thức của cá nhân con người và xã hội loài người và sự hoàn thành sự vận động của nó, đạt tới đỉnh cao nhất trong hệ thống triết học Hegel (triết học về tinh thần).

Hegel rất ưa thích và đề cao lối suy lý ba bước. Ông cho rằng mọi cái có lý tính đều là một suy lý ba bước: một cái chung liên hệ với cái đơn nhất thông qua cái riêng. Tuy nhiên, ông cũng phân biệt sự suy lý (tư duy) về sự vật với bản thân sự vật, cho rằng sự vật không phải là một chỉnh thể gồm ba mệnh đề. Và ông rất phản đối suy lý ba bước theo kiểu “hình thức vô ích” làm cho người ta buồn chán như ví dụ ông nêu ra: “Tất cả mọi người đều chết, Cai-i là một người, vậy Cai-i cũng chết”.

Trong hệ thống triết học lập luận theo lối “suy lý ba bước”, Hegel đã trình bày về sự vận động và biến hoá của ý niệm tuyệt đối một cách rất tư biện, nghĩa là không làm cho ý niệm phù hợp với sự vật mà trái lại, làm cho sự vật phù hợp với ý niệm… Ông cho rằng “tồn tại” là tính quy định thứ nhất của ý niệm tuyệt đối. “Tồn tại” ở đây không phải là thế giới vật chất, cũng không phải là sự phản ánh của thực tai vào ý thức con người, mà là khái niệm trừu tượng của tồn tại, tức là “tồn tại thuần tuý”. Tồn tại thuần tuý là tồn tại không có tính quy định nào, không cần một tiền đề nào, không có bất cứ một nội dung nào, không phải là sản phẩm của bất kỳ một sự trung gian nào nghĩa là đồng nhất với hư vô thuần tuý. “Tồn tại thuần tuý và hư vô thuần tuý là cùng một cái” là không có gì. Không có gì nhưng vẫn là một cái gì (cũng như số 0 vẫn là một cái gì khi phân biệt với những số khác). Theo Hegel, tồn tại thuần tuý chính là cái đang bắt đầu. “Cái đang bắt đầu là chưa tồn tại, nó chỉ hướng tới sự tồn tại…một sự không tồn tại mà cũng đồng thời là sự tồn tại”(?). Như vậy là khái niệm “tồn tại thuần tuý”đã chứa đựng mâu thuẫn trong bản thân nó, vì nó bao hàm hai mặt đối lập là tồn tại và hư vô và là sự thống nhất của tồn tại và hư vô. Do có mâu thuẫn mà nó vận động, và vận động đến mức nào đó thì dẫn đến sinh thành, tức là chuyển hoá thành một thứ tồn tại khác. “Tồn tại khác” này có tính quy định, không còn là “tồn tại thuần tuý” hay “hư vô” nữa, mà đã là một cái gì đó có “chất”, có “lượng”, được thống nhất ở trong “độ” (chú ý: chất, lượng, độ ờ đây không phải là chất, lượng, độ của sự vật mà là các khái niệm chất, lượng).

Ý niệm tuyệt đối khi đạt tới “độ” thì nhận được một sự quy định mới, sâu sắc hơn và cụ thể hơn, đó là khái niệm “bản chất”. Trong học thuyết về bản chất, Hegel đã đưa ra và phân tích nhiều khái niệm quan trọng như: bản chất, hiện tượng, bề ngoài, hiện thực quy luật… và nói về mối liên hệ giữa các phạm trù: quy luật và bản chất, quy luật và hiện tượng, bản chất và hiện tượng, bản chất và bề ngoài, bề ngoài và hiện tượng, khẳng định vả phủ định, tất nhiên và ngẫu nhiên, khả năng và hiện thực, tự do và tất yếu’ nguyên nhân và kết quả… Hegel đã trình bày nhiều vấn đề quan trọng của phép biện chứng, đặc biệt là về mâu thuẫn. Ông coi mâu thuẫn là phổ biến, là nguồn gốc và cơ sở của vận động, là nguyên lý của sự phát triển. Ông khẳng định: “Tất cả mọi vật đều có tính chất mâu thuẫn trong bản thân nó… Mâu thuẫn là nguồn gốc của tất cả mọi vận động và của tất cả mọi sức sống, chỉ trong chừng mực một vật chứa đựng trong bản thân nó một mâu thuẫn, thì nó mới vận động, phải có xung lực và hoạt động”.

Ý niệm tuyệt đối là phạm trù xuất phát và trung tâm của triết học Hegel.

Một người uyên bác và vĩ đại như Lenin, khi nghiên cứu triết học Hegel nhiều lúc cũng phải thốt lên: “thần bí”, “cực kỷ khó hiểu và có lúc đã nói đùa: “Biện pháp làm nhức đầu tốt nhất là đọc triết học Hegel”. Nghiên cứu triết học Hegel đương nhiên là phải đụng đến phạm trù “ý niệm tuyệt đối” đầy bí hiểm. Vì vậy, trong bước đầu tìm hiểu triết học Hegel, tôi cung mạnh dạn nêu lên mấy nhận thức còn thô thiển của mình về ý niệm tuyệt đối của ông:

Ý niệm tuyệt đối là “khái niệm thích hợp”, có tính chân lý khách quan. Theo Hegel, ý niệm tuyệt đối hay ý niệm trước hết là khái niệm, song không phải mọi khái niệm đều là ý niệm. Ông phân biệt ý niệm với khái niệm và cho rằng ý niệm cao hơn khái niệm: “Khái niệm chưa phải là khái niệm (cái) cao nhất, cái còn cao hơn nứa là ý niệm”. Khái niệm khi phát triển thành khái niệm thích hợp thì trở thành ý niệm. Như vậy, cái “cao hơn” của ý niệm so với khái niệm chính là sự “thích hợp”, tức là sự phù hợp, sự thống nhất giữa khái niệm và tính khách quan. Khái niệm phát triển thành khái niệm thích hợp, trở thành ý niệm, thì chính là chân lý: “Y niệm là chân lý, vì chân lý là sự phù hợp giữa tính khách quan và khái niệm”.

Ý niệm tuyệt đối cũng là hiện thực, hay nói cách khác, hiện thực là “tồn tại khác” của ý niệm. Hegel đã khẳng định một cách hết sức duy tâm: “Thế giới là tồn tại khác của ý niệm…”. Mọi hiện thực chỉ là hiện thực trong chừng mực nó chứa đựng và biểu hiện ý niệm. Đối tượng, thế giới chủ quan và thế giới khách quan không những chỉ phải phù hợp nói chung với ý niệm, mà chính bản thân chúng là sự phù hợp của khái niệm và thực tại, thực tại mà không phù hợp với khái niệm thì chỉ là hiện tượng, chủ quan, ngẫu nhiên, tuỳ tiện, nghĩa là không phải chân lý. Toàn bộ hiện thực, dù là cái phổ biến, cái đơn nhất hay cái đặc thù, đều là những biểu hiện khác nhau về phạm vi và mức độ của ý niệm tuyệt đối. Toàn bộ hiện chực cũng là ý niệm, tồn tại đơn nhất chỉ là một mặt nào đó của ý niệm , ý niệm còn cần đến hiện thực khác như là tồn tại đặc thù.

Ý niệm tuyệt đối là “cái phổ biến”, là một hình thức bao hàm và quy tụ nhiều nội đung phong phú, được thể hiện ở mọi đối tượng, nhưng mỗi đối tượng lại nhận thức không giống nhau. Hegel nói rằng ý niệm tuyệt đối là cái phổ biến, là những chân lý mà cả ông già và đứa trẻ con đều nói, nhưng đối với ông già, những chân lý này có ý nghĩa của cả cuộc đời ông, còn đối với đứa trẻ thì chỉ có nghĩa là một cái gì đó mà ngoài cái đó ra còn có cả một cuộc đời và tất cả vũ trụ. “Giống như cùng một câu cách ngôn luận lý, nếu do một thanh niên nói ra, tuy anh ta hiểu nó hoàn toàn đúng đắn, thì lại không có cùng một tầm rộng như khi câu đó xuất phát từ miệng một người từng trải việc đời và khi nói câu đó, người này nói lên toàn bộ sức mạnh của nội dung của nó”.

Ý niệm tuyệt đối là quá trình, là phép biện chứng. Theo Hegel, phép biện chứng không ở trong lý trí của con người mà ở trong hiện thực khách quan, tức là ở trong “ý niệm tuyệt đối”. Ý niệm, vời tư cách là quá trình, trải qua ba giai đoạn trong sự phát triển của nó, ý niệm tuyệt đối chứa đựng mâu thuẫn, chứa đựng cái phủ định của chính nó, vận động từ nội dung này đến nội dung khác, từ đơn giản đến phức tạp, do đó, ý niệm tuyệt đối là sự sống vĩnh viễn. Chính bản thân ý niệm là phép biện chứng, đã luôn luôn tách rời và phân biệt, cái đồng nhất với cái khác nhau, cái chủ quan với cái khách quan, cái hữu hạn với cái vô hạn, linh hồn với thân thể và cũng chỉ vì vậy mà ý niệm là sự sáng tạo vĩnh viên, là sự sống vĩnh viễn và tinh thần vĩnh viễn.

Ý niệm tuyệt đối là một phạm trù triết học duy tâm của Hegel, như Lenin đã nhận xét: “Mọi người đều biết ý niệm của con người là gì, nhưng ý niệm mà không có con người, hoạt động có trước con người, ý niệm trừu tượng, ý niệm tuyệt đối, là một điều bia đặt thần học của nhà duy tâm Hegel”. Tuy nhiên, chính Lenin cũng thấy cái “hạt nhân hợp lý”, “hạt chân lý sâu sắc” trong ý niệm tuyệt đối của triết học Hegel, đó là phép biện chứng. Ý niệm tuyệt đối của Hegel có vẻ là tuyệt đối duy tâm, nhưng như Lenin đánh giá: “Hầu như không chứa đựng một chủ nghĩa duy tâm đặc biệt nào mà chỉ có chủ đề chủ yếu là phương pháp biện chứng và lẽ là sự trình bày hay nhất về phép biện chứng”.

Theo VŨ HÙNG / TẠP CHÍ TRIẾT HỌC
0

Vài suy nghĩ về vai trò triết học Hegel và ‘ý niệm tuyệt đối’

Georg Wilhelm Friedrich Hegel (1770 – 1881) là đại biểu vĩ đại nhất của triết học cổ điển Đức, đỉnh cao của triết học tư sản và của chủ nghĩa duy tâm thế kỷ XIX.

0