kimluc
Hiển thị các bài đăng có nhãn Văn học Việt Nam. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Văn học Việt Nam. Hiển thị tất cả bài đăng

Thơ Hồ Xuân Hương: Tình dục và tâm thức phản kháng


Trong lịch sử ngôn ngữ và lịch sử văn học Việt Nam. Hồ Xuân Hương là người đầu tiên sử dụng thơ mang tính dục (sexual) của ngôn ngữ văn học hiện đại nước ta. Có thể nói rằng ngôn ngữ văn học Việt Nam đã trải qua một cuộc thay đổi về bản chất và khả năng biểu hiện đầy đủ, sâu sắc qua dòng thơ của Hồ Xuân Hương. Đây là một dấu hiệu tiến bộ trong lĩnh vực ngôn ngữ và văn học.

Hồ Xuân Hương sử dụng tài tình một lối ngôn ngữ đặc thù cho văn thơ; nói lên những yếu tố tâm lý nhân gian rút ra từ những tập quán thông thường, mô tả trắng trợn sự hiếu dục, hiếu sắc giữa hai bề mặt của tri giác.

Những trắc ẩn đó không một ai nói ra hoặc có chăng nữa cũng nữa úp nữa mở bởi những ước lệ khắc khe của Nho giáo của đạo đức xã hội; vì vậy mà không dám”vi phạm” dù dưới hình thức nào của chữ nghiã. Hồ Xuân Hương huỵch toẹt những tệ đoan xã hội, những tiềm ẩn chôn vùitrong lòng sâu của tâm hồn bằng những vần thơ tả chân, lột tả tột độ quan niệm nhân sinh. Nữ sĩ không e lệ, không ngượng ngùng, không sợ thị phi phê phán ở tuổi xuân thì của một thiếu nữ đương thời. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã dân tộc hoá những đặc tính văn hoá chữ Hán mà trước đây sử dụng dè dặt trong văn học chữ Nôm; nhờ điều hòa hai luồng tư tưởng cố hữu nói trên bà đưa vào những vần thơ phản ảnh đích thực hiện trường của một xã hội Việt Nam thời bấy giờ.

Tác giả Hồ Xuân Hương là sản phẩm đúc kết của thế giới ngoại quan và tác động tâm trí nội quan qua từng thời kỳ hay qua từng chặng đường lịch sử mà mỗi thời là động lực lôi cuốn sự biến thái của ý tưởng và ngôn ngữ nhất là ngôn ngữ của văn học những uẩn khúc của thân phận, thân phận bị chà đạp, cưỡng ép, bức tức mà người phụ nữ phải gánh chịu. Hồ Xuân Hương lấy thơ để riễu đời, để miệt thị những kẻ lộng quyền, nói lên những thói hư tật xấu mà xã hội phong kiến đã dung tục đã bao che. Tư tưởng bung xung của nữ sĩ phản ảnh đích thực của cuộc đời mà bà đã sống và thấy. Tuy nhiên; Hồ Xuân Hương không phải là người quá khắc khe với ngôn ngữ hay chủ quan của mình, lời thơ của Hồ Xuân Hương bay bổng và phát tiết ra muôn màu muôn sắc về thế thái nhân tình.

Hồ Xuân Hương một danh sĩ lừng lẫy; hơn phân nữa(100 bài thơ) thơ văn của bà để lại gồm có 17 bài tứ tuyệt, 38 bài Đường luật, 1 bài lục bát biến thể*. Nữ sĩ để lại cho đời những bài thơ bất hủ được truyền tụng cho tới ngày nay. Nhưng có điều; lịch sử văn học chưa xác quyết ngày sinh, tử của Hồ Xuân Hươngmặc dù đã kinh qua một thời gian dài lâu nghiên cứu, tìm hiểu của các nhà biên khảo. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương người xứ Nghệ, gia đình bà thiên di ra Thăng Long và bà chào đời ở Khán Xuân, huyện Vĩnh Thuận gần Hồ Tây. Nơi đây; về sau bà thành lập Cổ Nguyệt Đường làm chỗ thù tạc văn nhân thi phú.

Cuối cùng; chẳng tìm ra Hồ Xuân Hương ra đời vào năm nào và mai táng nơi đâu. Đời chỉ dựa vào văn thơ, tình yêu hoặc những giai thoại truyền khẩu trong dân gian mà giả định(assume) tiểu sử của bà; ngoài ra không để lại một chứng tích tài liệu nào khác hơn.

Nhìn vào hình ảnh cuộc đời của Hồ Xuân Hương, chúng ta không đòi hỏi một yêu cầu nào khác hơn. Nhưng may thay những bài thơ của bà nói lên hình ảnh trung thực của chân lý, hình ảnh trung thành với cuộc đời. Trước cuộc đời và vũ trụ, tiếng thơ của Hồ Xuân Hương được hòa vào thời gian, được gieo vào cung bậc của thơ, được ngâm lên bằng âm thanh chắt lọc cô đọng và thấm sâu vào lòng đất trong một tâm giới của tình yêu, của quả cảm, của xao xuyến, của bức rức, của “kinh kỳ” của chuyển động cơ thể tạo nên những bộc phá nội tại. Nữ sĩ họ Hồ là một nữ nhi “thông minh vốn sẵn tại trời” (ND) ở tuổi tám, mười phát ra từ khẩu khí một lời thơ không phải bình thường và dể dầu như vậy. Từ cuộc đời, từ vũ trụ ngoại giới đã ý thức một vũ trụ tâm hồn; cha chết ở mười tuổi, rồi tới mẫu thân rồi lại nhiễu nhương. Những dằn vặt nội tại chính là những bi thương cuộc đời …

“Giơ tay với thử trời cao thấp
Xoạc cẳng đo xem đất ngắn dài”


(Thơ nôm truyền tụng)

Tiềm ẩn cả một tâm hồn phản kháng, thách thức giữa vũ trụ quan và vũ trụ nội giới cái nhìn của Hồ Xuân Hương khác với cái nhìn của tâm lý học, của triết học. Bởi Hồ Xuân Hương đang đứng giữa của chủ thể, của tâm sinh lý của thời kỳ chuyển kinh trước khi ý thức sự vật ngoại giới. Trên lý thuyết mang tính chất có thực(reality) nhưng trong vai trò chủ thể Hồ Xuân Hương chỉ biết về mình khi có sự vật ngoại giới hiện diện làm cho mình trở nên hiện hữu, vì rằng; ở tuổi mười, mười lăm của Hồ Xuân Hương là một phản kháng nội tại, một yếu tố tâm sinh lý thường xảy ra cho những tuổi dậy thì, một phản kháng siêu hình”giơ tay với thử.. ”là cả một đòi hỏi vượt mức, Hồ Xuân Hương muốn dấn thân, không sợ, không thị phi; “xoạc” với một ý thức trẻ thơ mà đã trưởng thành ở nội giới, nội giới ấy là hình ảnh, biểu lộ tự nhiên đưa tới sự cố là hình ảnh của gợi cảm của ngôn từ. Cũng nhờ đó soi rõ nội tâm Xuân Hương khi đụng chạm với vũ trụ ngoại giới “Trong sâu thẳm của mỗi từ ngữ, tôi chứng kiến sự sinh tôi”

(A fond de chaque mot. J’assiste à ma naissane) Alain Bosquet. Sở dĩ có được những ngôn từ, dù ẩn thể, nó cũng mang lại một cái nhìn thoáng vụt nhưng kinh hoàng giữa hai hình thái sáng tạo và ngôn từ trong tâm lý thơ của Hồ Xuân Hương.

Hồ Xuân Hương lớn dần với thời gian nẩy sinh trong lòng một tư tưởng yếm thế, đôi khi hoài nghi cho chính mình, và; cũng chưa hẳn định nghiã trọn vẹn hai chữ tục lụy. Thái độ ngập ngừng ở tuổi tròn trăng của Mai (Hồ Xuân Hương tự là Mai) khi đến thăm đài Khán Xuân:

Êm ái chiều xuân tới Khán đài
Lâng lâng chẳng bợn chút lòng ai
Ba hồi chiêu mộ chuông gầm sáng
Một vũng tang thương nước lộn trời
Bể ái nghìn trùng khôn tát cạn
Nguồn ân muôn trượng dể khơi vơi
Nào nào cực lạc là đâu tá ?
Cực lạc là đây chín rõ mười.


(Thăm Đài Khán Xuân)

Hồ Xuân Hương tả cảnh quang như một sự ngạc nhiên , nhưng hình ảnh ngạc nhiên là hình ảnh không xa lià đối tượng, gắn bó với đối tượng hiện hữu và trong hình ảnh thiên nhiên đó gắn bó với đối tượng suy tưởng, gắn bó một ý nghĩ của lòng mình là đã khám phá được nội giới mình qua đối tượng. Quan hệ của sự khám phá ấy chính là ngôn từ mà trong thơ của họ Hồ đã sử dụng để cho ta ý thứcsự tương ứng của ba hoàn cảnh qua một ngôn từ: biểu tượng ngôn từ, biểu tượng hình ảnh và biểu tượng tâm lý. Không có một đối tượng vũ trụ lúc ấy mà chỉ có cái nhìn từ vô ảnh mà ra, đó là tâm thức của con người. Không có một đối tượng vũ trụ mà chỉ dàn trải một tâm trạng bơ vơ giữa cảnh quan. Nội tâm chao động phát ra những ngôn từ:” êm ái, lâng lâng, nước lộn trời, dể khơi vơi …” Nữ sĩ Hồ Xuân Hương hiện tại thấy mình nhiều hơn thấy vũ trụ “Nào nào cực lạc là đâu tá?” thấy được sự hoài nghi tức là thấy được tâm trạng chơi vơi bằng một sự thức tĩnh trực tiếp của tâm trạng nhiều hơn qua đối tượng.

Tâm trạng vụt biến thành hình ảnh và thể hiện ra ngôn từ. Trong thế giới thơ, cõi phi ấy chiếm phần quan trọng trong sự khám phá của tâm hồn, có thể nói rằng ý thức của nghệ sĩ bình dân khi sáng tạo ra một câu thơ là do ý kiến về ngoại giới. Hồ Xuân Hương nhận sự vật trong không gian mà không sao thấy được đối tượng tình yêu mình mong muốn; cho nên mơ về (rêver à / a dreamy ) sự vật của vũ trụ là mơ về trạng thái thương nhớ của tình yêu. Đó là những trạng thái đẩy Hồ Xuân Hương vào sự chọn lựa hôn nhân. Nữ sĩ biết phận mình, gái ngoài hai mươi là gái lỡ thì đó là cái nhìn sâu xa của con người muốn tương giao với vũ trụ hiện hữu, mối tương giao đó tìm ra cõi lòng mình đang ẩn kín từ nội giới, trong bài Già Kén Kẹn Hom bà viết:

Bụng làm dạ chịu trách chi ai ?
“Già Kén Kẹn Hom” ví chẳng sai !
Tiếc điã hồng ngâm cho chuột vọc
Thừa mâm bánh lọc để ngưu vầy
Miệng khôn trôn dại đừng than phận
Bụng ỏng lưng eo chớ trách trời
Đừng đứng núi này trách núi nọ
Thì đâu đến nỗi đói ăn khoai !


Đó là những chặng đường của tình yêu bằng sự vật, bằng hiện tượng vũ trụ ngoại giới; sự kiện ta thán, lấy hiện tượng vũ trụ ngoại giới để nói lên vũ trụ tình yêu cho nên lời thơ nghe bình dị, chân thật nhưng đồng thời cũng lập được một ý nghĩ cho ngôn từ. Lời than vắn thở dài chính là nỗi trầm thống của nữ sĩ họ Hồ đang đứng giữa hai lĩnh vực tuổi đời và tình yêu, cả hai thứ đó vật lộn trong tư tưởng vũ trụ quan. Cảm tác bài thơ trên sau khi Hồ Xuân Hương bức ra khỏi cuộc tình đầu bất- đắc- dĩ với Tổng Cóc. Sau cái chết của Tổng Cóc; Hồ Xuân Hương có một cái nhìn đối tượng khách quan, nhìn tiếp thu, nhìn tham dự. Đó là những gì Hồ Xuân Hương muốn gạt ra khỏi vũ trụ nội giới để thiết lập một cái nhìn bình dị, vô tư với hình ảnh đẹp hơn, khát vọng hơn. Đó là khát vọng của sự vật và khát vọng của con người. Hồ Xuân Hương mơ về một người tình tương lai, tương đắc, tương phùng hơn cuộc tình “cưỡng bức” với Tổng Cóc. Qua bài thơ Khóc Tổng Cóc; Hồ Xuân Hương nghiễm nhiên đứng trên dư luận, phi đạo đức, phi lễ nghiã một phản kháng công khai đối với ngoại giới mà bà đương sống:

Hởi chàng ôi! ới hởi chàng ôi !
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi
Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhá
Ngàn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi.


Chính cái nhìn đối tượng khách quan cũng đã đổi thay vũ trụ nội quan của Hồ Xuân Hương đưa tới một cái nhìn sáng sủa hơn.

Đời của Hồ Xuân Hương là một cuộc đời thử thách , đấu tranh tư tưởng khi tuổi mới lớn, rồi lấy chồng rồi ở giá, những vật lộn ngoại giới, gây bấn loạntâm thần đó là yếu tố tâm lý nhưng Hồ Xuân Hương là một phụ nữ nhạy cảm , dể rung động về bản năng sinh lý, nữ sĩ rơi vào một trạng thái bị động về sinh lý nén đọng ( to suppress ). Hồ Xuân Hương đang tìm kiếm cho chính mình đối tượng tình yêu mà xung quanh bà trống không là phù phiếm, đến với Hồ Xuân Hương những thứ tạp nham, bà cảm thấy khổ, chính khổ sở đó đưa tới cái trống không vây phủ và nhận ra trong hiện hữu không có được một hạnh phúc nào khác, thì đó là một hiện hữu trống không “L’être et le néant “ J. P. Sartre; cho nên Hồ Xuân Hương phải xác nhận cụ thể vai trò của mình và chính là cái mà bà đang sống với “vivre avec” hiện hữu; qua bài thơ nguyền rủa như sau:

Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
Lại đây cho chị dạy làm thơ
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa
Dê con buồn sừng húc dậu thưa.


(Mắng Học Trò Dốt)

Để từ đó; đi tìm chân lý cho chính mình, đó là cái mơ tuyệt đối của nữ sĩ.

Ý muốn hoài vọng, nghiã là nhà thơ họ Hồ, kẻ biết hưởng và sáng tạo lối mơ về của mình trong việc chiếm cứ cũng như chia xa mà mỗi trong chúng ta gặp phải cái tương quancủa Hồ Xuân Hương, Bà lý giải cuộc đời qua nhiều trạng thái khác nhau, xung đột với nội tâm, nhưng trong sự xung đột đó bà vẫn mơ về; bỗng nhiên chân lý tuyệt đối xuất hiện như phép mầu Hồ Xuân Hương gặp Phạm Đình Hổ như định mệnh hay giấc mơ của bản thể mơ về vì Hồ Xuân Hương cảm nhận được sự thúc đẩyđó và chính trong lần gặp gỡ ở hội thơ giữa hai người đã tương giao, xem như ngẫu nhiên nhưng thực chất là cố tình, như lối mơ về không còn là ngẫu nhiên mà tiềm ẩn hay bộc phát giữa hữu thức và vô thức.

Phạm tiên sinh nhìn Hồ Xuân Hương dưới một hiện tượng khác, dưới một hiện tượng của một tài hoa và ngược lại Phạm Đình Hổ là một danh sĩ. Từ chỗ thông giao thơ văn họ chuyển qua cái nhìn của tha nhân khác phái. Hồ Xuân Hương làm bài thơ Đưa Đò gởi cho Phạm tiên sinh:

Chú lái kia ơi, biết chú rồi
Qua sông rồi lại đấm ngay bu
Chèo ghe vừa khỏi lòng dòng ngược
Đấm c…ngay vào ngấn nước suối
Mới biết lên bờ đà vỗ đít
Nào khi giữa khúc phải co vòi
Chuyến đò nên nghiã sao không nhớ ?
Sang nữa hay là một chuyến thôi.


Đến khi Hồ Xuân Hương đã đi vào cái tuổi “về chiều”. Bà nhận ra sự phủ phàng của cuộc đời mà bà đã trải qua, bà cảm thấy cô độc trở lại, tình yêu đến rồi đi ở chặng cuối đời là một thức tĩnh nội tại vì bà nhìn cuộc đờiđã ẩn tàng sự biến đổi khi vừa chấp cánh hạnh phúc chưa kịp nhận thì đã khước từ sự biến di ? Có lẽ muốn thể hiện thể tính tình yêu cho nên lối mơ về bất chấp sự biến di đó. Đấy là những câu hỏi có thể có và cũng có thể không có trong lòng một người chứng kiến tổn thương của ái tình để đánh thoátsự hiện hữu đó. Xuân Hương tỏ bày cái vũ trụ nội giới của mình, vừa chua xót vừa rủa đời:

Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Năm thì mười họa nên chăng chớ
Một tháng đôi lần có cũng không
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hỏng
Cầm bằng làm mướn, mướn không công
Thân nầy ví biết dường này nhỉ
Thà trước thôi đành ở vậy xong !


Tâm thức phản kháng của Hồ Xuân Hương lại một lần nữa bộc phát, không buông tha bà chấp nhận về cái gọi là ý thức tục lụy, ý thứcsiêu hình phản kháng. Nói như André Maurois:”Một người đàn bà dù có tầm thường đến mức nào cũng đủ làm cho chúng ta đau khổ; vì họ là đàn bà” Thì Phủ Vĩnh Tường cũng phải lụy cái tài hoa của Xuân Hương; bà biết thân phận mình, biết phận làm lẻ của một người tai to mặt lớn, văn hay chữ tốt đó không phải là chuyện thua thiệt của kẻ sĩ. Bản thể sâu xa của Hồ Xuân Hương là dự ước của hiện sinh cho nên hòa mình với Phủ Vĩnh Tường là cõi mơ về của Hồ Xuân Hương; thời gian siêu hình và thời gian hiện sinh trong cuộc sống của bà dù một phút quyết định của một ý thức ái tình, có kế tiếp chăng, có lẽ; chỉ bên kia cuộc đời cho nên hồi cố với Phạm Đình Hổ chỉ trên biên giới của đời và vô biên chứ không thể trong chuyển vận của hiện sinh giữa đời và tình ái.

Sau cái chết của Phủ Vĩnh Tường Trần Thúc Hiển, rồi tình yêu lỡ vận với Phạm Đình Hổ. Như vậy đời của Hồ Xuân Hương đã ăn nằm với ba nhân vật tai tiếng mà rút lại hóa không. Cái không ở đây là biểu tượng tuyệt vọng; l’être et le néant một hiện hữu trống không, một thôi thúc mà Hồ Xuân Hương gánh chịu của thời gian, thời gian tâm lý chính là thời gian sống của con người; đó là thời gian ý thức mà con người của nữ sĩ đã đắm mình vào và hòa mình trong nhịp sống để tạo nên một biến trình nội tại. Nếu con người đặt mình trong biến trình chuyển vận ngoại tại thì có thể sử dụng được thái độ đối xử của mình.

Thái độ hiện tại thuộc về tư tưởng cũng như tác động là hình ảnh sống động về nhân sinh; phơi bày một chế độ tàn dư phong kiến hẹp hòi, bất công của bọn giáo phường, đạo đức giả hiệu. Qua bài Vịnh Cái Quạt:

Mười bảy hay là mười tám đây
Cho ta yêu dấu chẳng rời tay
Mỏng dày chừng ấy chành ba góc
Rộng hẹp dường nào cắm một cây
Càng nóng bao nhiêu thời càng mát
Yêu đêm không phỉ lại yêu ngày
Hồng hồng má phấn duyên vì vậy
Chúa dấu vua yêu một cái này.


Bài thơ nói lên cái thật của hiện hữu nhưng cái thật của Hồ Xuân Hương là cái bao hàm vũ trụ nội quan có một âm hưởng khác, một âm hưởng nội tại đó là hiện hữu tính dục vật thể. Một lối dụng công chữ nghiã của họ Hồ mà ít ai xây dựng cái cảm quan như vậy. Đó làdòng tâm lý đi từ qúa khứ, hiện tại và tương lai khi con người thấy mình đang sống qua bao nhịp đời đã sống cũng như viễn tượng tương lai của nhịp đời sẽ sống. Đó là thời gian tâm lý mà Hồ Xuân Hương đã vượt qua và chính những giây phút ấylà hành động và cảm giác. Hồ Xuân Hương đã dùng ngôn từ như một thể tính triết học hiện sinh vừa cụ thể hóa vừa tượng trưng những thâm sâu cùng tận của vũ trụ ngoại giới cũng như vũ trụ siêu hình.

Động Hương Tích; Hồ Xuân Hương phơi bày cảm quan của mình qua con người hiện sinh, nhận định bằng cảm giác là nhận định trực tiếp ngay số phận của mình đang sống qua sự bắt gặp của ý thức:

Bày đặt kìa ai khéo khéo phòm
Nứt ra một lỗ hỏm hòn hom
Người quen cõi Phật chen chân xọc
Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm
Giọt nước hữu tình rơi thánh thót
Con thuyền vô trạo cúi lom khom
Lâm tuyền quyến cả phồn hoa lại
Rõ khéo trời già đến dở dom.


(Thơ Nôm truyền tụng)

Cho nên có một hiện hữu hành vi và cảm giác; hiện hữu đang có những tác động gì đang được hoàn tất cả một mùi vị chua chát hay ngọt ngào, hiện hữu có một màu sắc thanh bình hay thê thảm trong khi hoài niệm phai dần với thời gian, không thấy được, không cảm được bằng tri giác không gian mà chỉ có thể bằng ký ức.

Vậy tâm thức phản kháng của Hồ Xuân Hương là tinh thần phản kháng giữa cõi thế vô thường, vô lượng của một thân phận mỏng manh, yếm thế, bức tức rơi vào một xã hội bất công và ngược đãi. Phản kháng là không đành lòng thuận sự ngổn ngang, tình huống nghiêng ngả và gắng gượng tái lập cõi mộng“Cổ Nguyệt Đường” trong cái mộng thái hòa để được xoa dịu, bởi; hiện hữu của nữ sĩ là nỗi trầm thống và tinh thần phản kháng hiện sinh được phát tiết qua những vần thơ nguyền rủa, phẩn nộ với ngậm ngùi của nội tại. Từ chỗ hữu hình và vô hình Hồ Xuân Hương vấp phải những gò đống, hang cùng ngõ cụt những ray rứt nội tại xô mình vào vũ trụ siêu hình, vũ trụ nhân sinh quan.

Ý thức của Hồ Xuân Hương là ý thức đậm mùi tục lụy. Có thể nói rằng khi chấp nhận hiện thể để chứng minh tình cảmcủa mình Hồ nữ sĩ xác định cuộc đời của con người hoàn toàn đau xót và không bao giờ ngừng nghỉ những mối sầu thương và vẫn yêu cuộc đời đau khổ vì khổ đau cũng giống như niềm vui và đôi khi đồng hóa với niềm vui…

những lý lẽ đó hoặc bởi những lý do nào khác mà ta mất đi lịch sử đích thựccủa họ Hồ. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương nhận thức được thời đại của mình đang sống. Đời đã nói một câu như thế nầy thay cho Hồ nữ sĩ “Je ne serait pas ici demain” không cần có tôi ở đây cho ngày mai.

Nghĩ cùng thế sự lòng như đốt
Trông suốt nhân tình dạ muốn say.
Hồ Xuân Hương. Tự Thán


(Thơ Nôm Lưu Hương ký).

Theo VĂN NGHỆ SÔNG CỬU LONG
0

Thơ Hồ Xuân Hương: Tình dục và tâm thức phản kháng


Trong lịch sử ngôn ngữ và lịch sử văn học Việt Nam. Hồ Xuân Hương là người đầu tiên sử dụng thơ mang tính dục (sexual) của ngôn ngữ văn học hiện đại nước ta. Có thể nói rằng ngôn ngữ văn học Việt Nam đã trải qua một cuộc thay đổi về bản chất và khả năng biểu hiện đầy đủ, sâu sắc qua dòng thơ của Hồ Xuân Hương. Đây là một dấu hiệu tiến bộ trong lĩnh vực ngôn ngữ và văn học.
0

Ðảng “cánh buồm đen” – Sơn Nam

Từ thuở nhỏ, Sáu Bộ theo một người bạn lên núi Cô Tô để học đạo nhưng không có đạo nào quyến rũ anh được lâu dài. Hết đạo Ớt qua tới đạo Ðất; từ giã ông đạo Ðất, anh đến thọ giới tại cốc của ông đạo Nằm. Chán ông đạo Nằm, anh đi lang thang qua núi Dài với ý định cuốc đất làm rẫy. buổi chiều đó, anh ngồi trên phiến đá, mắt đăm đăm nhìn cảnh núi rừng, chợt thấy một ông lão râu tóc bạc phơ, tay chống gậy trầm hương từ từ đi lại. Ðoán chừng đó là một trong số trăm ngàn đạo sĩ ở vùng Thất Sơn này, anh không để ý cho lắm. Nhưng ông lão nọ bỗng sừng bước trước mặt anh, nhịp gậy xuống đất ba lần, cười lên ba tiếng lớn mà rằng:

Chim bay về núi tối rồi.

Sao không lo liệu còn ngồi chi đây?

Anh đứng dậy, chắp tay chào. Ðạo sĩ ung dung nói:

– Chưa nghe lời ta ư? Thời kỳ này là thời kỳ “mạt pháp”… Chim đã bay về núi, trời đã tối.

Anh đáp:

– Con chưa hiểu rõ. Bạch đạo sĩ, “mạt pháp” nghĩa là thế nào? Phải chăn mạt pháp là người Pháp tàn mạt?

Ðạo sĩ gật đầu:

– Khá khen cho con. Hiềm vì con có chí mà thiếu tài. Nghe con nói, bần đạo vui vẻ biết mấy như giữa trưa nắng mà uống được nước Cam lồ. Mạt pháp có nghĩa là thời kỳ giáo pháp suy đồi, đạo đức của tiền nhân không còn được thịnh. Tại vì nhân tâm rối loạn ư? Cũng phải. Tại vì bọn Phù Lang Sa ư? Thậm phải… Con hiểu sai nhưng mà nói đúng.

– Bạch đạo sĩ, đó là chuyện quốc sự của kẻ còn nặng lòng trần tục.

– Nhưng ở đây chúng ta chưa phải là tiên. – đạo sĩ nói.

Ðuối lý, anh cố suy nghĩ để trả lời. Ðạo sĩ nói tiếp:

– Thời buổi mạt pháp nầy chưa có ai thành tiên hoặc gặp tiên được. Ai nói ngược lại tức là dối mình, dối người, dối với non cao, dối với bể rộng… Muốn thành tiên thì phải dày công tu luyện để ngày kia giữ được chức vị cao.

– Bạch đạo sĩ, công tu luyện ấy như thế nào… Chức vị ấy gọi là chi?

Ðạo sĩ nói lớn:

– Gọi là chức vị “chặt đầu Tây”. Con nghe chưa? Con nghe chưa? Xưa kia đức Nguyễn Trung Trực phá Kiên giang. Lúc sa cơ, Người không mảy may úy tử. Trước pháp trường, giặc khuyến dụ trăm điều, hứa ban cho… ôi thôi bao nhiêu là bạc vàng, chức vị! Người cả cười, chỉ xinh thọ lãnh một chức vị: chức nào mà Người có quyền chặt đầu tất cả bọn Tây.

Giọng đạo sĩ như nghẹn ngào:

– Hỡi ôi! Dũng tướng đã rơi đầu mà lời vàng ngọc nọ mãi rền vang trong lòng người, khắp non cao biển rộng… Chặt đầu Tây! chặt đầu Tây!

Dứt lời, đạo sĩ quay mình. Gió thổi mạnh. Lá rừng cát núi bốc lên xoay tròn mờ mịt như khỏa dấu chân, che dáng hình của đạo sĩ. Anh Sáu Bộ tất tả chạy theo, đôi mắt chóa lòa như vừa sống trong một giấc chiêm bao mầu nhiệm.

– Sư phụ! Cúi xin sư phụ thương con!

Giữa muôn trùng cỏ cây, anh chỉ nghe đá núi vọng lại:

– Chặt đầu Tây! Lời ấy không phải của ta nói. Con nghe không? Lời ấy của trời đất nói.

Thế là năm năm sau, chàng trai trẻ ấy xuống núi. tên Sáu Bộ được sửa lại là Tư Hiền, Tư Hiền chỉ mang theo cây roi dài một thước tám, bằng cây trắc. Với cây roi ấy và đường quờn Lưu Thủy, anh nghiễm nhiên trở thành chúa đảng Cánh Buồm Ðen, hùng cứ từ mũi Cà Mau đến hải phận Hà Tiên.

Sáng tinh sương,. Như thường lệ, Tư Hiền định cho ghe chạy dài theo mé biển. Vừa tách khỏi hòn Tre, gió nam thổi xuôi đưa anh về phía hòn Sơn Rái.

Kìa, một chiếc ghe trôi bềnh bồng theo sóng, lá buồm sụ xuống, cột buồm đứt hết dây chằng. Lập tức anh cập lại đoán có người vừa bị nạn. Trong ghe nọ chỉ thấy một ông lão nằm mê man bất tỉnh. Sau khi được cạy miệng uống hớp nước lạnh, ông tỉnh lại nhìn dáo dác:

– Ông đây là ai?

Tư Hiền đáp:

– Tôi là người đi mò ngọc điệp ở hòn Nhạn.

Ông lão khóc nức nở:

– Ăn cướp đánh tôi. Cha con tôi đi Rạch Giá bán tôm khô, về ngang đây bị nó chận lại giựt hết tiền, bắt luôn con gái; hẹn ba ngày sau đem trả lại.

Tư Hiền nói:

– Nó đi hướng nào? Lâu mau rồi? Tôi bắt tụi bất lương này đem về lập tức cho ông coi.

Tức thời buồm mũi và buồm lái xổ ra. Tay anh siết dây lèo thượng. Ghe phóng nhanh tới. Không mấy chút, đã thấy một đốm đen trước mặt.

anh thét to:

– Tụi bây coi tao!

Chiếc ghe trước vẫn giương hai cánh buồm màu đen chạy ngạo nghễ, khinh thường. Anh cho ghe sát lại, nhảy qua quơ roi đánh mạnh khiến sợi dây chằng ghe nọ phải đứt.

Buồm sụ xuống. Ghe chạy đảo nghiêng gần chìm.

Nghe vù một tiếng, Tư Hiền vội né mình. Biết rằng gặp tay đối thủ lợi hại, anh bình tĩnh chống đỡ. Chợt liếc phía sau, thấy ngọn lao phóng tời, anh lách qua. Ngọn lao đâm trúng bẹ ghe, ghìm sâu vào, tên nọ lỡ trớn té xuống biển.

– Biết ta là ai chưa?

Chưa dứt lời, Tư Hiền đã gài ngọn roi của tên còn lại xuống sạp. Hắn cố sức gỡ lên nhưng không xuể, rốt cuộc đành quì xuống:

– Nói thiệt với ông, tôi là ăn cướp biển. Lâu nay tôi từng gặp nhiều người tài giỏi nhưng chưa ai bằng ông. Tên thiệt tôi là Năm Bùn.

Tư Hiền đáp:

– Tại sao đánh một người già cả, nghèo hơn mình? Con gái của người ta mày giấu ở đâu? Mau trả lại. Ðồ du côn!

Năm Bùn năn nỉ:

– Trăm sự chỉ vì tôi chưa hiểu. Cô đó tôi giấu dưới khoang hầm.

Tư Hiền rất đỗi ngạc nhiên khi thấy nhan sắc khá lộng lẫy của cô nọ. Cô quì xuống lạy tạ ơn. Lập tức, anh bèn đưa cô sang ghe mình. Sau khi nhận lời hứa tái ngộ với Năm Bùn tại hòn Ðá Bạc, anh cho thuyền trở về gặp ông lão nọ.

Ðêm ấy anh ăn cơm ở Rạch Cóc, tại nhà ông lão. Nhơn bữa ăn, anh nhận thấy ông lão có ý tạ ơn mình bằng cách gả con gái cho, nếu anh muốn. Anh viện nhiều lẽ để từ chối. Trước lòng chân thành của gia đình, anh hứa sẽ trỡ về cưới, sau một thời gian hai năm.

– Kim Thoa! Ðừng buồn nghe em. Anh thề chết sống gì cũng trở lại cưới em làm vợ. Bây giờ anh phải ra đi. Anh đi sao thì về vậy…

Từ giã xong. Tư Hiền cho ghe tách bến, nhắm hướng hòn Ðá Bạc đúng theo lời hứa với Năm Bùn.

Thấy ghe của Tư Hiền đến đúng hẹn, Năm Bùn vô cùng mừng rỡ, khâm phục và ra lịnh cho bộ hạ phải nghiêm chỉnh đón chào.

Ðể tỏ lòng thành thật của mình, Tư Hiền đi hai tay không, để cây roi dưới ghe. Chào hỏi xong xuôi anh nhờ Năm Bùn cho bộ hạ lấy roi lên giùm mình. Lúc ăn uống, Tư Hiền ao ước được thưởng thức võ nghệ của đảng Cánh Buồm Ðen. Ðể đáp tạ, anh biễn diễn cho ai nấy xem một đường roi Lưu Thủy đã học được trên núi. Lúc biểu diễn, người ở ngoài tự do ném đá hoặc phóng dao vào thử. Ngọn roi xoay chung quanh mình anh như nước chảy không dứt, không rời, chớp nhoáng như gió…

Kết quả là Năm Bùn sẵn sàng giao đảng Cánh Buồm Ðen cho Tư Hiền làm đảng trưởng. Nhờ vậy đảng được chỉnh đốn lại.

Hằng ngày, các bộ hạ phải luyện tập võ nghệ cho tinh thông, cấm tuyệt không xâm phạm tài sản của người chài lưới ở ven biển. Hai kẻ thù chánh cần đánh đổ không nương tay là đoàn tàu “đoan” của Tây và ghe buôn lậu Hải Nam.

Từ đó về sau, nhiều tin tức mới lạ được làm đầu đề bàn tán cho dân chúng miền duyên hải Rạch Giá, Cà Mau:

– Trời ơi! Hai thằng con trai của ông X. bị ghe Hải Nam bắt, tưởng biệt tích… Ai dè mấy ông Buồm Ðen giựt lại được.

– Sáng hôm qua, có cái chưn vịt tàu của tụi “tàu cáo” để sẵn trên sân chợ. Tây hoảng hồn nhìn ra đó là chưn vịt của chiếc ca nô tuần biển đi mấy bữa rày chưa thấy về.

– Mấy ông Buồm Ðen đốt ghe Hải Nam ở hòn Nhạn. Bên này chết ba, bên kia chết trọn tàu…

Ba năm sau, có tin đảng Cánh Buồm Ðen đã rã.

Người đồn rằng: Chúa đảng vì quá giàu có nên trốn qua Xiêm. Không tán thành ý đó, kẻ khác quả quyết rằng chính mắt mình đã thấy xác chúa đảng trôi tấp vào bãi. Từ sáu tháng nay, đảng Cánh Buồm Ðen là đảng giả mạo.

Gia Ðình của cô Kim Thoa khổ tâm hơn hết. Một đêm lạnh lẽo nọ, có tiếng gõ cửa. Tư Hiền bước vào, ôm ghì lấy người hôn thê:

– Anh phải về, không bao giờ anh làm nghề này nữa.

– Tây tập nã anh, phãi không?

– Số là anh vừa giết oan một người. Tụi ghe Hải Nam lên hòn để mua heo, chừng kéo neo chúng không chịu trả tiền; anh đánh chết năm đứa. Nhưng rủi thay gặp một đứa biết võ nghệ khá cao. Anh đánh roi xuống. Nó đứng trên bãi, đưa roi lên đỡ trúng. Ngặt anh xuống tay mạnh quá, nó lún xuống bùn, ngã lăn trào máu miệng. Lúc hấp hối, nó ngoắc anh lại mà nói: “Tôi không phải chủ ghe. Tôi ở mướn mãn đời, giết tôi mà chi!”. Cảm động quá, anh cúi xuống xin lỗi nó, nó khoát tay anh ra, nói tiếp: “Tôi tha lỗi thì được. Còn vợ con tôi ở Hải Nam cũng đương làm mướn, Làm sao anh xin lỗi được…”

Kim Thoa! Em nghe anh nói lại chưa? Ðây là lần đầu tiên trong đời mà anh đau đớn nhứt. Anh giết oan người ta. Ngọn roi này, anh xuống tay mạnh quá, bị ô uế rồi. Tội nghiệp, chết không nhắm mắt mà ngón tay hắn còn chỉ về phía biển khơi, nơi quê vợ con. Thấy phận người mà nhớ tới phận mình, anh vội về đây.

o0o

tháng hai năm 1946. Có tin: Tây trở lại chiếm gần tới Rạch Giá, chúng đã nhảy dù xuống biên giới Việt Miên gần núi Sam, Châu Ðốc. Dân chúng sục sôi căm hờn tập trung lại ngọn Cái Bắc để bày mưu kế. Có đến trên ba mươi thanh niên tình nguyện đi bắt sống bọn Tây nhảy dù ở xa cách quê nhà hằng hai trăm cây số. Họ thiết lập một bàn thờ Tổ quốc giữa rừng, lấy củi tràm đốt thế cho trầm hương và mượn mặt bất để làm đỉnh đồng. Y phục của họ khác nhau, nhưng giống nhau ở chất vải màu luốc luốc, chứa chấp bao nhiêu rận. Giữa quang cảnh mộc mạc, thiêng liêng đó, người ta thấy một ông lão râu tóc bạc phơ chống cây gậy cao khỏi đầu bước ra.

Ai nấy thầm thì:

– Ông Năm Lập thợ câu của xóm mình!

Ông lão nọ bỗng rưng rưng nước mắt:

– Không! tôi không phải Năm Lập. Tên thiệt của tôi là Sáu Bộ. Có mấy năm đó, tôi lấy danh hiệu Tư Hiền, cầm đầu đảng Cánh Buồm Ðen.

– Trời! Chúa Ðảng là đây sao?

– Nói thiệt với bà con, tôi mai danh ẩn tích. Hôm nay tôi phải ra mặt. Nếu ngồi ì ở nhà, không ai làm gì tôi, nhưng tôi cảm thấy nhục nhã như thiếu món nọ gì đối với trời đất, núi non. Nếu xét tôi có tội, anh em cứ giết tôi để tế cờ. Bằng không thì cho phép tôi truyền lại bí quyết nhiệm mầu của đường Lưu Thuỷ mà thầy tôi dạy hồi năm mươi năm trước. Ðường quờn này ít ai biết lắm, lúc tôi diễn, bà con cứ ném cây, phóng dao vô mà không bao giờ trúng tôi.

Ông đứng thẳng người, hai tay chắp cây roi lên bái tổ rất kính cẩn. Rồi thì vút một tiếng, ngọn roi xoay tròn che lấp thân ông như dải lụa, như nước từ trên thác tuôn xuống chấp chóa. Ðến kẻ ngỗ nghịch nhứt cũng không dám ném cây vào để thí nghiệm như ông cho phép.

Lại một cuộc bàn tán náo nhiệt, vô trật tự:

– Học được đường quờn của ổng, chắc Tây về nước rồi. Thời giờ cấp bách lắm!

– Ði bắt “Tây nhảy dù” chỉ cần thanh niên lanh lẹn. Ông đi không được đâu. Ðể tụi tôi đốn tầm vông vạt nhọn, lẹ hơn…

Giọng ông lão nói ngậm ngùi:

– Không lẽ tôi tự vận. Bà con thương tôi. Nó là cây roi có chức vị “chặt đầu Tây” của tổ sư tôi truyền lại ở núi Dài, năm đó.

– Thôi, lộn xộn quá. Ông cho tôi cây roi này để làm cán mác thì hợp thời hơn, chặt vắn lại vài tấc, đầu kia tra lưỡi mác thông. Có chất sắt thêm vô, ngọn roi của ông mới xài được. Tôi biết là hư cây roi, uổng lắm nhưng ông chịu phiền.

– Ừ. Làm gì thì làm, miễn dùng nó được thì thôi. Thiếu củi nấu cơm, chặt khúc nó mà chụm, lão đây cũng không tiếc. Mấy cháu biết không? Ðây là thời kỳ mạt pháp.

Ðoàn quân ra đi gấp. Làm sao họ có thời giờ để hỏi han ông về một đôi danh từ xa lạ đó? Họ tản ra bốn hướng trời, ít người được trở về xóm cũ. Sau đó vài tháng, giặc vào đốt xém. Ông lão nọ chết vì không chịu tản cư, lưu lại một tình cảm lạ lùng, khó dứt khoát đối với những ai chưa hiểu rõ hoàn cảnh đặc biệt của phần đất Cà Mau tận cùng này.

SƠN NAM
0

Ðảng “cánh buồm đen” – Sơn Nam

Từ thuở nhỏ, Sáu Bộ theo một người bạn lên núi Cô Tô để học đạo nhưng không có đạo nào quyến rũ anh được lâu dài. Hết đạo Ớt qua tới đạo Ðất; từ giã ông đạo Ðất, anh đến thọ giới tại cốc của ông đạo Nằm. Chán ông đạo Nằm, anh đi lang thang qua núi Dài với ý định cuốc đất làm rẫy. buổi chiều đó, anh ngồi trên phiến đá, mắt đăm đăm nhìn cảnh núi rừng, chợt thấy một ông lão râu tóc bạc phơ, tay chống gậy trầm hương từ từ đi lại. Ðoán chừng đó là một trong số trăm ngàn đạo sĩ ở vùng Thất Sơn này, anh không để ý cho lắm. Nhưng ông lão nọ bỗng sừng bước trước mặt anh, nhịp gậy xuống đất ba lần, cười lên ba tiếng lớn mà rằng:
0

MÙA LEN TRÂU – Sơn Nam


Mùa “len” trâu

Nước tràn bờ sông Hậu chảy qua. Nước trên trời tuôn xuống. Gió biển triền miên thổi lộng về. Từ Sáng đến chiều, mặt trời biến dạng sau lớp mưa: ánh nắng pha loãng đều đều không làm chóa mắt kẻ ưu tư đang ngồi hút thuốc mà ngắm mấy lượn sóng chạy dài tiếp lưng trời. Núi Ba Thê bên này, núi Cấm trước mặt, hòn Sóc, hòn Ðất bên kia bình thường xem hùng vĩ, thơ mộng thì nay trở thành lè tè, bé bỏng trong cảnh bao la trời nước.

Chú Tư Ðinh lại vấn điếu thuốc thứ nhì, mỉm cười khi thấy từ chân trời một cơn mưa to hơn sắp kéo đến.

– Ừ! Mưa hoài đi. Ông trời năm nay biết điệu, thuận mùa, thuận tiết…

Thiếm Tư như phản đối ý chồng:

– Mưa vài đám nữa thì có môn leo lên nóc nhà mà ở. Ba cái lu, ba cái hũ trôi lểnh nghểnh trong nhà rồi, ba nó chưa hay sao? Gạo hết, tiền hết.

– Mình đừng trách trời. Hồi nào tới giờ, trời cứ vậy hoài, hết mùa hạn thì phải tới mùa nước lụt chớ.

Chú Tư muốn giải nghĩa sự lạc quan của mình dài dòng hơn để thiếm Tư nghe. “Ðàn bà giỏi tài chú ý lặt vặt chuyện bếp núc. Nhìn ra đồng thì họ chỉ thấy những chuyện trên mặt nước, hơi đâu mà cãi”. Nghĩ vậy, chú im lặng, vấn thêm điếu thuốc nữa. Giờ này, dưới đáy nước, sát mặt ruộng, mớ đất cày mềm nhũn, trở mình trắng phau. Gió thổi mạnh, trôi nhà trôi cửa nhưng lúa một tấc; thân lúa đuối sức cố nằm dài trên mặt nước vừa hấp hối ngột thở là nhánh non nứt ra trong nháy mắt để chào đón cuộc sống.

Sau hè nhà, nước dậy đùng đùng, sóng gợn từng lượn lớn, vỗ lát chát vào vách. Chú Tư bước nhè nhẹ trên sàn tay vịn mái nhà, tay che mắt rồi cau mày; thằng Nhi đứa con trai của chú đang cưỡi trâu về.

Ðôi trâu bước lên nền chuồng trâu lúc trước, tuy đã đắp cao thêm gần một thước vậy mà nước leo lên lé đé.

Chú Tư chờ thằng Nhi vào nhà. Nó cổi cái áo ướt mem quăng trên sân:

– Xung quanh đây hết cỏ rồi. Làm sao bây giờ hả ba? Trâu đói nữa, con mắt nó đổ ghèn hoài.

Chú nói:

– Bên giồng cát Sóc Xoài… Mày có qua tới đó không?

– Có. Mà hết cỏ rồi. Mấy lõm cỏ sau chùa không đủ cho trâu bò ở đó ăn, đâu có dư tới mình. Trâu mình ốm nhiều. Từ Ðây tới nước giựt còn trên ba tháng nữa, làm sao chịu nổi?

– Hồi đầu mùa, tao biểu giao trâu mình họ len đi miệt khác kiếm cỏ. Má mày ngăn cản. Bây giờ tới nước này rồi…

Thiếm Tư trầm ngâm suy nghĩ, nhìn đôi trâu đã mòn sức, be sườn lòi rõ rệt từng hàng như vòng cung. Ðể ở nhà, trâu chết đói; giao cho thiên hạ len đi thì làm sao bảo đảm được? Trâu của trăm chủ khác nhau gom lại chung một bầy, tha hồ lấn hiếp, chém lộn bầy trâu gần bốn trăm con mà chỉ có năm sáu người chăn giữ.

Ðường dài thăm thẳm, lội nước băng rừng, rủi khi bịnh hoạn thì trâu đành bỏ mạng nơi xứ lạ quê người. Thật là tấn thối lưỡng nan! Ðôi trâu nhà đứng khúm núm đó, trên nền chuồng, như hai pho tượng bằng đồng đen dựng lên mặt nước. Thiếm nói:

– Ba nó tính sao thì tính. Tôi rối trí quá rồi.

Chú Tư chép miệng:

– Không nên cãi mạng trời. Muốn cãi cũng không được. Không lẽ họ giết trâu mình? Trăm con, chết chừng đôi ba con là nhiều. Muốn vững bụng hơn, mình cho thằng Nhi theo coi chừng.

Thằng Nhi há miệng ngạc nhiên không dè mùa nước năm nay nó lại được đi du lịch bất ngờ như vầy. Chú Tư hỏi:

– Muốn đi không mậy? Chặng đầu, họ mới len trâu tới chân núi Ba Thê, mình đuổi theo nhập bầy còn kịp, đây qua đó chừng nửa ngày đường. Lấy cái nóp mới của tao mà đem theo. Dọc đường muỗi mòng, mưa gió nhớ đi theo sát hai con trâu của mình, đừng ham chơi lêu lổng. Nói với tằn khao (đầu nậu, cai thầu) rằng mình chịu đóng cho y mười giạ lúa tiền công len trâu, mùa này.

&

Mưa cứ mưa trút xuống. Gió cứ dậy sóng lên. Từ lúc thằng Nhi dẫn trâu đi, nhà cửa lần lần trở nên vắng lạnh. Thiếm Tư cằn nhằn:

– Giao sanh mạnh hai con trâu cho họ, ba nó chưa vừa bụng sao? Lại còn bày đặt cho thằng Nhi đi theo! Rủi bề gì…

Chú Tư nói:

– Má nó khéo lo thì thôi! Trâu hễ tới số thì dẫu cầm ở nhà nó cũng không sống. Tôi buồn lắm. Trâu giúp mình tạo ra hột lúa; bù lại, mình không kiếm đủ cỏ cho nó ăn no. Như vậy là mình bất nhân . Còn thằng Nhi… dịp này để nó học nghề với người ta.

Thiếm Tư hơi giận:

– Nghề gì? Nghề chăn trâu mà cũng học nữa à? Tôi không ham cái nghề đó.

– Má nó nói giỡn sao chớ! Chăn trâu còn khó hơn diều binh khiển tướng. Ðời xưa, nhiều người nhờ lúc nhỏ chăn trâu mà tới lớn được làm vua. Con nít chăn trâu ca hát nghe bậy bạ nhưng nhiều khi linh nghiệm như sấm truyền, đoán trúng những chuyện quốc sự. Tôi nhớ coi… Trong truyện Phong Thần gì đó nhắc cái tích ông Nịnh Thích ngồi trên lưng trâu, gõ sừng mà hát công kích vua đời… Liệt Quốc Ðông Châu! Vua giựt mình, mời ông Nịnh Thích về làm quân sư. Nghe đâu lúc về hưu trí, ông Nịnh Thích lại cữi trâu mà du sơn ngoạn thủy. Như, tiều, canh, mục là bốn điều quan trọng mà.

Thiếm Tư vẫn chưa nguôi cơn buồn:

– Ba nó nói chuyện đời xưa. Chăn trâu theo kiểu ở xứ mình có khác, tối ngày đeo đuôi trâu mà lặn hụp dưới nước, ăn không no, ngủ không yên…

– Nhưng mà học khôn nhiều chuyện. Mà nó hồi nào tới giờ chưa từng tới núi Ba Thê, vậy mà bây giờ thằng Nhi nó rành đó! Cảnh núi non thanh lịch, tâu ăn cỏ ngẩng đầu coi mây bay lui tới; ngứa lưng thì trâu cọ mình vô cột của đền vua chùa mà gãi sốn sột. Má nó biết không? Ở núi Ba Thê, trâu len ăn cỏ trên đền vua đời xưa… Vua chùa mất hết, trâu đời đời kiếp kiếp còn đứng dửng dưng trên mặt đất này hoài!

Thiếm Tư bực bội:

– Ðói, không đủ cỏ ăn mà cũng sang trọng. Thôi ông ơi! Ðừng nói nữa.

– Hết cỏ thì qua chỗ khác, má nó đừng lo. Từ Ba Thê cả bầy trâu len qua miệt Bảy Núi. Oai vệ lắm kìa! Voi đi một lần đôi ba chục con là cùng, cọp đi hai ba con là nhiều; cảnh đó ở miệt rừng ai cũng thấy. Ðằng này, trâu lội nước năm ba trăm con, đen đầu, đặc nước. Kiếm bạc trăm là dễ chớ muốn thấy được cảnh đó không phải dễ, giống như hồi thiên hạ sơ khai, càn khôn hỗn độn… Mấy ông thầy chùa, bà vãi ẩn mình trong cốc trên núi, chán cảnh trần tục vậy mà họ còn bước ra ngóng mắt theo bầy trâu len dữ dội…

Càng nhắc tới, chú Tư càng thích chí, thiếm Tư trái lại ngồi buốn xo, không tin nơi lời chồng , cho rằng đó là kiểu an ủi gượng của kẻ túng cùng. Chú Tư lại vấn thuốc, hỏi vợ:

– Má nó ngủ hay thức? Nãy giờ có nghe không? Sao không ừ hử gì ráo, hay là ngủ rối…

– Tôi nằm nghe đây mà. Nghe bằng lỗ tai chớ nghe bằng miệng sao mà phải ừ hử từng chập?

Chú Tư lại nói tiếp:

– Ở Bảy Núi thanh khiết hơn ở Ba Thê. Trâu ăn toàn cỏ lạ hoa thơm; lắm thứ cỏ phảng phất mùi gì giống như vị thuốc Bắc. Ban đêm, muỗi mòng cũng ít, tiếng chuông chùa, tiếng tụng kinh gõ mõ thì nhiều… Mặc dầu ăn cỏ ở dưới chân núi, trâu cũng được phong làm chúa sơn lâm. Cọp beo trên núi quì xuống mà đầu hàng chớ không dám xáp lại.

Bên kia sàn nhà, thiếm Tư bắt đầu thở nhẹ rồi ngáy pho pho. Chú Tư mỉm cười, không chút hờn giận. “Vợ mình chán không thèm nghe nữa vì nãy giờ mình nói toàn những chuyện vui tươi, sung sướng, giấu giếm những nỗi cực nhọc trong nghề chăn trâu. Nhưng cần gì? Cốt ý là mình nhắc lại cuộc đời len trâu của mình hồi thuở con nhỏ cho riêng mình nghe mà thôi”. Chú lại vấn thuốc hút. Bên ngoài trời vẫn mưa, sóng nước vẫn chạy ùa tới đập vào vách nhà. Khói thuốc phun mờ mờ, bay thoảng lên cao. Chân trời lại hiện ra, lúa nằm dài xanh rờn, nhấp nhô trên ngọn sóng. Và… Ðằng xa kia là Bảy Núi, nơi mà giờ này thằng Nhi và hai con trâu của chú đang tung hoành, sắp lội nước hằng mươi cây số để vượt ra mé biển đến vùng rừng tràm miệt Linh Quỳnh.

Rừng tràm xanh đậm, rọi xuống mặt nước đỏ ngầu, rung rinh. Nhứt là về đêm khi trăng chiếu, đom đóm bay về đậu khắp nhánh tràm như họp chợ phiên! Hồi thuở nhỏ, chú đến đó nhiều lần. Cảnh ấy bây giờ thay đổi vì nhà nước đã đào thêm con kinh Xáng Rạch Giá – Hà Tiên và đắp xong con lộ đá. Trâu vượt qua lộ xe hoặc ngủ tạm trên lộ cho tới sáng. Lội dưới nước lâu ngày, móng trâu trở nên mềm, đứng trên đá, trâu đau chân. Chú Tư bỗng hình dung trước mặt một cảnh tượng oai hùng, khi mặt trời vừa lố dạng, đàn trâu phải rút vào rừng tìm nơi ăn nằm. Nhà nước đắp lộ xe nào phải để cho trâu đứng, phá hoại… Trâu chạy ầm ầm. Không mấy chút, tràm gãy rôm rốp ngã liệt xuống, lõm rừng trở thành một cái đầm rộng lớn. Người len trâu tạm nghỉ ngơi vài ngày. Mấy “tay riều” đốn củi gần đó tụ họp lại làm quen, đánh bài cào, uống rượu, đốt lửa lên bàn chuyện tiếu lâm. Lắm khi họ sắp đặt công việc đi ăn cướp, ăn cướp kẻ khác và ăn cướp lẫn nhau. Mấy tay len trâu giựt tiền của tay riều; mấy tay riều xúm nhau giựt trâu của mấy tay len. Rừng lại đẫm máu… Trong cuộc xô xát dao búa đó, sanh mạng của con người như con kiến, hà huống chi đứa trẻ bé bỏng như thằng Nhi, con trai chú!

Chú Tư giựt mình, e ngại.

Trong giấc mơ, có lẽ thiếm Tư không tưởng tượng được tới cảnh chém giết rùng rợn đó. Thiếm nói lảm nhảm rồi lại trở mình, ngáy khò khò.

&

Tháng mười, nước giựt xuống. Ðến cuối tháng, mặt ruộng lộ ra, cỏ non nhú mọc xanh tươi đến tận chân trời. Mưa dứt sớm. Núi non lại trở nên hùng vĩ. Suốt mùa, lúa nương theo nước mà vươn lên đến bốn năm thước; bây giờ lúa nằm rạp xuống đất, chồng chất cao ngùn ngụt. Cái sàn nhà của chú Tư cũng hạ xuống. Cuộc sống trở lại bình thường.

Ðêm ấy, quá canh ba, có tiếng kêu vang dội:

– Ba ơi ba! Má ơi má! Trâu mình nè…

Chú Tư, thiếm Tư mừng quýnh, tốc mùng chạy ra: Thằng Nhi về đó, coi dị hợm hơn mọi ngày, máng trên vai một đống gì cao nghệu. Chú Tư xanh mặt. Nó thảy đống ấy xuống đất:

– D.m. chết hết một con. Ðem cặp sừng bộ da của nó về nè! Nặng gần chết. Ð.m. không lẽ bỏ luôn.

Thiếm Tư mếu máo, mừng vì gặp được con, buồn vì mất hết phân nửa gia sản:

– Mô Phật. Mạnh giỏi hả con? Trời ơi! Con đi theo coi chừng mà làm sao nó chết? Dọc đường con có đau ốm gì không… Con, Con…

Chú Tư im lặng, buồn buồn. Mừng con, tiếc của là một lẽ. Nhưng còn lẽ khác đáng lo ngại hơn… Hồi nào tới giờ, thằng Nhi ăn nói đàng hoàng mà chuyến về này, trong câu nói hồi nãy, nó pha vô hai lần chửi thề mà nó không hay.

Thiếm Tư nhìn cặp sừng và bộ da trâu mà rơi nước mắt:

– Thôi! Lần này lần chót. Năm tới bán con trâu còn lại, không làm ruộng nữa. Ðất nước gì kỳ cục quá, cái xứ này…

Chú Tư nghiêm mặt:

– Nói bậy nữa đi. Ðất của mình, nước của mình mà bà dám nguyền rủa hả? Hồi nào cúng vái, bà nói bà phục ông bà đất nước lắm mà…

Thiếm Tư đi ra sân lo đốt lửa để un trâu. Chú Tư cũng đến vuốt ve con trâu còn lại rồi trở vô thấy thằng Nhi đang chụp gói thuốc rê trên bàn; nó mở ra, xé giấy vấn hút phì phà một cách tự nhiên, ngon lành.

– Ghiền rồi hả mậy? Chú hỏi.

– Hai ba bữa rày, hút có mấy điếu. Ở rừng, họ hút kịch liệt lắm kìa… ba.

Chú Tư đem chai rượu đế ra, rót vào chén. Chú thấy thằnh Nhi hít mũi lia lịa.

– Nhậu thì nhậu một chút cho ấm đi! Cỡ này mày sanh nhiều tật lạ.

Rồi chú day ra sân mỉm cười:

– Bà nó ơi! Coi thằng con của bà nè! Nó giống hệt tôi hồi nhỏ quá chừng.

Thiếm Tư chạy vào, không hiểu rõ đầu đuôi. Thiếm lau nước mắt rồi nấu cơm cho thằng Nhi ăn, dọn mùng cho nó ngủ… Chú Tư thức mãi tới khuya, thỉnh thoảng hé mùng dòm thằng Nhi. Mùng rộng rãi nhưng nó vẫn co rút như hồi nằm trong nóp chật hẹp. Tay và bụng của nó xăm đầy những chữ nho, chữ quốc ngữ. Không cần đọc kỹ, chú đoán đó là “ngũ hồ tứ hải giai huynh đệ” hoặc “ái tình vạn tuế” mà một tay hảo hớn nào đã xăm cho nó.

– Mình không lỗ lã gì đâu! Chú Tư lẩm bẩm một mình.

Chuyến đi len trâu này, đứa con của chú mhiễm nhiều tật xấu nhưng nó khôn lớn hơn, nghe thấy được nhiều việc mà ở nhà chú không nghe thấy. Chú ra sân. Dưới ánh trăng suông, con trâu Pháo bước tung tăng, nhịp móng xuống lớp phù sa mát rượi, đứng trên mặt đất hôm nay mà sao thấy hơi khác lạ hơn mặt đất hôm nao, cũng ở chốn này. Nó hinh hỉnh lỗ mũi như cố phân biệt mùi thơm của cỏ núi hoa rừng với mùi thơm của mùi lúa sạ đang độ chín.

SƠN NAM

(Hương Rừng Cà Mau)
0

MÙA LEN TRÂU – Sơn Nam


Mùa “len” trâu

Nước tràn bờ sông Hậu chảy qua. Nước trên trời tuôn xuống. Gió biển triền miên thổi lộng về. Từ Sáng đến chiều, mặt trời biến dạng sau lớp mưa: ánh nắng pha loãng đều đều không làm chóa mắt kẻ ưu tư đang ngồi hút thuốc mà ngắm mấy lượn sóng chạy dài tiếp lưng trời. Núi Ba Thê bên này, núi Cấm trước mặt, hòn Sóc, hòn Ðất bên kia bình thường xem hùng vĩ, thơ mộng thì nay trở thành lè tè, bé bỏng trong cảnh bao la trời nước.
0