kimluc
Hiển thị các bài đăng có nhãn Việt-Trung. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Việt-Trung. Hiển thị tất cả bài đăng

Biển Đông: Chứng lý không thể chối cãi của Việt Nam

Nếu kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế về những hành vi ngang ngược trên Biển Đông thì khả năng thắng của Việt Nam còn cao hơn Philippines năm 2016.


Vị trí của bãi Tư Chính/Nam Côn Sơn so với các đảo trên Biển Đông
Nguồn: Phan Văn Song/Đồ họa: Du Sơn
0

Báo Mỹ: Trung Quốc múa gậy ở Biển Đông

Hôm 28/7 báo The Hill của Mỹ có đăng bài “Trung Quốc múa gậy ở Biển Đông” của James Holmes – một chuyên gia về hàng hải thuộc trường Naval War College.



Trước hết, tác giả James Holmes cho rằng cuộc tranh chấp giữa Iran và Vương quốc Anh, mỗi nước đã giam giữ một tàu chở dầu của nhau đang khiến thế giới chú ý và quên mất chuyện Trung Quốc tạo sóng ở Biển Đông. Tác giả tự hỏi tại sao hai chuyện nóng trên biển lại xảy ra trong thời gian quá gần nhau như thế. Phải chăng là có kẻ lợi dụng điểm nóng ở chỗ khác để hành động của mình bớt bị chú ý.

Hành động của Trung Quốc ở gần bãi Tư Chính được tác giả cho rằng “Trung Quốc đang cố gắng củng cố quyền kiểm soát 80 đến 90% Biển Đông, bao gồm cả vùng biển được phân bổ cho các nước láng giềng Đông Nam Á theo “hiến pháp đại dương” chính là Công ước về Luật Biển (UNCLOS).

Đây là một chiến lược hành động dài hơi của Trung Quốc. Trở lại năm 2009, Bắc Kinh đã đệ trình bản đồ lên Liên Hợp Quốc khẳng định “chủ quyền không thể chối cãi của họ” trên vùng biển trong “cái đường chín đoạn của họ” (ngoặc kép là cách mỉa mai của tác giả), bao quanh 80 đến 90% Biển Đông. Chủ quyền có nghĩa là một chính phủ được thực thi luật pháp trong không gian địa lý được phân định theo biên giới. Nói cách khác, đảng Cộng sản Trung Quốc cầm quyền quyết tuyên bố quyền ra lệnh cho tàu và máy bay Trung Quốc và nước ngoài có thể và không thể làm gì trong đường chín đoạn - giống như luật pháp Trung Quốc chi phối những gì công dân và người nước ngoài được làm trong biên giới Trung Quốc trên đất liền.

Bài báo cũng khẳng định rất mạnh mẽ Trung Quốc đã sai khi xâm phạm chủ quyền nước khác khi dẫn chi tiết: Trong tháng này, tàu thăm dò dầu khí Trung Quốc Haiyang Dizhi 8 đã đậu gần bãi Tư Chính. Giáo sư danh dự Carl Thayer, chuyên gia Việt Nam từ Đại học New South Wales, giải thích, vùng nước xung quanh bãi Tư Chính nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam (EEZ), một vành đai 200 hải lý ngoài khơi (tính từ đường cơ sở) được phân chia cho các quốc gia ven biển theo quy định của UNCLOS.

Từ đó, James Holmes khẳng định: "Đặc quyền là đặc quyền, Hà Nội, chứ không phải Bắc Kinh, mới duy nhất được hưởng quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên từ cả dưới nước và đáy biển trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Đáy biển trữ lượng khoảng 45 triệu thùng dầu và 172 tỷ feet khối khí đốt có thể khai thác". (lưu ý tác giả khẳng định rõ một lần nữa bãi Tư Chính là vùng biển của Việt Nam).

Hiện tại bãi Tư Chính, Việt Nam đang rất kiềm chế và làm đúng phần việc của mình. Bài báo trên The Hill viết: Bãi Tư Chính không có các tàu chiến mang tên lửa hù dọa nhau và cũng không có máy bay chiến đấu bay lượn trên bầu trời dọa dội bom. Thay vào đó, như báo cáo từ tờ Straits Times có trụ sở tại Singapore, lực lượng bảo vệ bờ biển 2 bên đã đối mặt quanh Haiyang Dizhi 8. Tàu cảnh sát biển hiện diện ở đây chứ không phải là tàu chiến. Cảnh sát được vũ trang nhẹ hoặc không vũ trang thường hoạt động trong khu vực nằm dưới quyền tài phán của nước mình. Họ thi hành luật pháp quốc gia, giải cứu người đi biển khỏi nguy hiểm và thực hiện các công việc hành chính. Ít khi họ tham gia chiến đấu.

James Holmes viết “Bắc Kinh và Hà Nội đang cố gắng gửi thông điệp rằng họ có quyền đưa ra các quy tắc điều chỉnh với những gì xảy ra ở vùng biển ngoài khơi Việt Nam (lưu ý tác giả lần thứ 3 trong bài khẳng định bãi Tư Chính là vùng biển của Việt Nam).

ại sao không điều hải quân tàu xám - cây gậy lớn - để phát đi thông điệp đó? Vâng, hải quân chiến đấu cho những thứ đang tranh chấp; Tại sao phải thừa nhận có tranh chấp? Cảnh sát biển quản lý vùng biển thuộc về mình. Bằng cách triển khai các tàu vệ bờ biển vỏ trắng - cây gậy nhỏ - cả hai đã tuyên bố, và trên thực tế hiện trường, rằng họ đang thực thi luật pháp ở vùng biển nơi họ có quyền làm như vậy”.

Như vậy, theo cách viết của James Holmes trong trường hợp này thì cảnh sát biển và các lực lượng chấp pháp của chúng ta đã cư xử đúng với nhiệm vụ và bổn phận của mình trong vùng đặc quyền kinh tế của nước nhà. Còn Trung Quốc thì ráng đóng kịch hành động tại một nơi không thuộc về họ.

Trong tâm thế của kẻ làm việc bất minh, Trung Quốc vẫn đặt tay lên cây gậy lớn tức là phòng trường hợp dùng sức mạnh quân sự. Việc này được James Holmes mô tả là Trung Quốc thủ sẵn lực lượng máy bay, tên lửa trên bờ và hải quân phía sau sẵn sàng yểm trợ. Trên thực tế là ngay trước đó, Trung Quốc đã tập trận rầm rộ và phóng thử tên lửa trên Biển Đông gây lo ngại cho các nước láng giềng.

Với kiểu tay múa gậy nhỏ (cảnh sát biển), tay dứ gậy lớn (hải quân), James Holmes đánh giá Trung Quốc có tùy chọn leo thang từ đấu gậy nhỏ sang gậy lớn nếu thuận lợi. Còn Việt Nam có ít lựa chọn như vậy. Theo James Holmes, nếu Cố Tổng thống Mỹ Theodore Roosevelt có sống lại dù không bao giờ chấp nhận mục tiêu của Trung Quốc ở Biển Đông, nhưng ông cũng phải ngả mũ trước chiến thuật múa gậy nhỏ, dứ gậy to của Trung Quốc. Tổng thống Theodore Roosevelt là người rất thích câu châm ngôn “Nói năng nhẹ nhàng và cầm cây gậy to sẽ giúp bạn đi xa” và từ cây gậy đã trở thành thuật ngữ chính sách ngoại giao của Mỹ sau này.

Để đối phó với Trung Quốc mưu mô thâm hiểm như vậy, thì tác giả trong phần kết bài cho rằng Việt Nam cần phải tìm kiếm cho mình những đồng minh dám liều chơi tới cùng (nguyên văn là: allies bearing brickbats).

Vụ Bãi Tư Chính

Bãi Tư Chính nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và do đó hoàn toàn không nằm trong vùng biển tranh chấp song Trung Quốc lại cho rằng bãi này nằm trong cái gọi là “Đường 9 đoạn” - một yêu sách phi lý đã bị Tòa Trọng tài Quốc tế tuyên là vô hiệu nhưng Bắc Kinh hoàn toàn phớt lờ. Gần đây, nhóm tàu khảo sát Hải Dương Địa chất 8 (Haiyang Dizhi 8) của Trung Quốc đã có các hoạt động vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông này.

Ý kiến của Bộ Ngoại giao Việt Nam

Về phía Việt Nam, người phát ngôn Lê Thị Thu Hằng hôm 25/7 khẳng định:

"Về vụ việc nghiêm trọng này, chúng tôi đã đề cập nhiều lần trong các phát biểu trước đây. Như đã nhiều lần khẳng định, Việt Nam kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán đã được xác lập tại Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982) bằng các biện pháp hoà bình, trên cơ sở của luật pháp quốc tế".

Theo người phát ngôn Lê Thị Thu Hằng, với mục tiêu trên, Việt Nam đã có nhiều hình thức giao thiệp ngoại giao phù hợp, trao công hàm phản đối cho phía Trung Quốc, yêu cầu rút ngay khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Các lực lượng chức năng của Việt Nam triển khai các biện pháp phù hợp, đúng pháp luật.

"Duy trì hoà bình, ổn định và tự do hàng hải, hàng không, đề cao thượng tôn pháp luật, tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của các quốc gia như được xác lập tại UNCLOS 1982 là lợi ích và trách nhiệm chung của các nước và cộng đồng quốc tế. Việt Nam hoan nghênh và sẵn sàng cùng các nước và cộng đồng quốc tế nỗ lực đóng góp vào mục tiêu nói trên, vì hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển của tất cả các quốc gia trong khu vực và trên thế giới", bà Lê Thị Thu Hằng nhấn mạnh.

Nguồn: The Hill, Sputniknews

Link: https://thehill.com/opinion/national-security/454402-china-swings-a-small-stick-in-the-south-china-sea

0

Biển Đông: Vì sao Việt Nam không kiện TQ ra toàn án quốc tế?


Vì sao Việt Nam không kiện Trung Quốc trong vấn đề tranh chấp biển Đông? Phân tích của nhà báo người Mỹ gốc Việt Đỗ Dzũng, cộng tác viên báo Người Việt, STBN.

Nguồn: Nua Vong Trai Dat TV
0

Hành động của Trung Quốc 'đẩy Việt Nam vào vòng tay của Mỹ'


Tư liệu: Bộ ngoại giao Việt Nam tuyên bố về biển Đông trên Twitter (@PressDept_MoFA)

Trung Quốc và Việt Nam lẽ ra là những đối tác tự nhiên của nhau bởi vì hai nước chia chung ý thức hệ cộng sản, nhưng theo một chuyên gia của Viện nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore (ISEAS Yusof Ishak) thì những hành động của Bắc Kinh trên Biển Đông đang đẩy Việt Nam, một nước cựu thù trở thành một đồng minh của Mỹ.

Đó là ý kiến của Tiến sĩ Lê Hồng Hiệp thuộc Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore (ISEAS Yusof Ishak) trong một bài bình luận đăng trên báo South China Morning Post ngày 25/7/2019.

Bài báo lược qua những diễn biến mới đây trên Biển Đông.

Đối đầu trên biển

Căng thẳng không ngừng leo thang giữa hai nước anh em xã hội chủ nghĩa sau khi Trung Quốc điều tàu khảo sát địa chất Hải dương 8 vào hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, cản trở các hoạt động thăm dò dầu khí của Việt Nam liên doanh với các nước khác trên các vùng biển thuộc thềm lục địa Việt Nam, theo định nghĩa của Công ước Quốc tế về Luật biển 1982.

Hà nội tố cáo Bắc Kinh xâm phạm chủ quyền của Việt Nam tại bãi Tư Chính, lọt thỏm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý được quốc tế công nhận, trong khi Bắc Kinh vẫn đơn phương tuyên bố chủ quyền trên hầu hết diện tích Biển Đông.

Việt Nam lần này phản ứng mạnh mẽ và công khai một cách bất thường. Một mặt gửi tàu cảnh sát biển tới bãi Tư Chính để thách thức tàu hải cảnh Trung Quốc, mặt khác chính thức phản đối Trung Quốc, và còn kêu gọi “tất cả các bên liên quan trong cộng đồng quốc tế hãy góp phần duy trì trật tự, hòa bình và ổn định trên Biển Đông”.

Người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê thị Thu Hằng cho biết Việt Nam đã liên lạc với phía Trung Quốc và “mạnh mẽ đòi Trung Quốc phải ngưng mọi hoạt động bất hợp pháp, rút tàu ra khỏi các vùng biển của Việt Nam.”

Ngày hôm sau, dường như để đáp ứng lời kêu gọi của phía Việt Nam, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ra tuyên bố bày tỏ quan tâm về “hành động cậy mạnh đe dọa Việt Nam và ngăn cản các hoạt động từ lâu của Việt Nam, thăm dò và khai thác tài nguyên dầu khí ở Biển Đông”. Tuyên bố của Mỹ hối thúc Bắc Kinh hãy “ngưng hành vi bắt nạt của mình và tự chế, tránh các hoạt động có tính cách khiêu khích và gây bất ổn.”

Tuyên bố của Mỹ muốn chỉ ra rằng các quyền lợi của Hà nội và Washington giờ đã tụ về một điểm. Hai bên đều muốn thách thức các tuyên bố chủ quyền phi lý của Trung Quốc trên Biển Đông, mà cả hai nước cho là quá tham lam. Việt Nam lẽ đương nhiên muốn bảo vệ chủ quyền và các lợi ích hàng hải của mình trong Biển Đông, trong khi Hoa Kỳ đang tìm cách kiềm hãm cao vọng bành trướng của Trung Quốc trong khu vực, thách thức vị thế cường quốc số 1 của Hoa Kỳ.

Tiến sĩ Lê Hồng Hiệp đặt nghi vấn về tính hợp lý của chính sách đối ngoại của Trung Quốc, ông nói vào thời điểm khi mà cường quốc đang lên ở Châu Á cần đến các nước bạn và đồng minh để đối phó với những sự đối đầu của Hoa Kỳ, thì Bắc Kinh lại đẩy Việt Nam ra xa, vào vòng tay của Mỹ.

Ông đặt câu hỏi, tại sao Việt Nam phải cân nhắc những sự nhạy cảm về an ninh của Trung Quốc, trong khi nước này không lý gì tới những quan tâm an ninh chính đáng của Việt Nam? Trong khi đó thì Hoa Kỳ đang mở rộng vòng tay, mời gọi Việt Nam tham gia một cấu trúc an ninh liên kết khu vực, có thể giúp Việt Nam mặc cả với Trung Quốc và được hưởng những lợi ích qua các nỗ lực của Hoa Kỳ tăng sức cho các đối tác khu vực, về cả mặt kinh tế lẫn quân sự, để kiềm hãm Trung Quốc.

Nguy cơ xung đột

Hệ thống truyền thông ABC của Úc bày tỏ lo ngại về nguy cơ xung đột bùng nổ trong khu vực vì những sự xung đột ở cả Biển Đông và biển Hoa Đông. Bài báo “‘Ready to fight’: Tensions escalate in South China Sea”, tạm dịch “Sẵn sàng úng chiến: Căng thẳng leo thang ở Biển Đông” đăng ngày 26/7, viết:

“Châu Á đã nhảy vọt một bước tới gần thảm họa. Máy bay chiến đấu của 4 nước đối đầu nhau trên không phận một hòn đảo đang tranh chấp. Việt Nam đang thách thức một tàu trinh sát có hành vi khiêu khích của Trung Quốc, và Philippines kêu gọi Hoa Kỳ, nước đã ký hiệp ước phòng vệ hỗ tương, hãy bảo vệ Philippines.”

Nguồn: VOA Tiếng Việt
0

Chuyên gia Biển Đông: Trung Quốc chép lỗi sai của bản đồ Anh để tạo 'đường 9 đoạn'

Chuyên gia Bill Hayton dẫn chứng tài liệu cho thấy "đường 9 đoạn" là một yêu sách rất mới, xuất phát từ việc Trung Quốc sao chép lỗi sai trong bản đồ của Anh.


Trung Quốc xây dựng trái phép tại đá Vành Khăn ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam tháng 10/2017. Ảnh: CSIS.

Yêu sách "đường 9 đoạn" của Trung Quốc có nguồn gốc từ sự thiếu hiểu biết và nhầm lẫn nghiêm trọng về Biển Đông của Trung Quốc trong giai đoạn 1933 - 1947, học giả Bill Hayton từ viện Chatham House của Anh khẳng định tại Hội thảo về Biển Đông lần thứ 9 do Trung tâm Nghiên cứu chiến lược Mỹ (CSIS) tổ chức tại Washington ngày 24/7.

Hayton dẫn các tài liệu và minh chứng lịch sử từ Trung Quốc cho thấy Trung Quốc chỉ bắt đầu quan tâm đến Hoàng Sa từ năm 1909, sau khi có thông tin Nhật Bản chiếm đóng và khai thác đảo Pratas, nằm gần Đài Loan. Đầu tháng 6/1909, Trung Quốc bắt đầu tổ chức đoàn khảo sát đi Hoàng Sa (nơi Việt Nam đã xác lập chủ quyền từ thế kỷ 17) và nêu yêu sách với quần đảo. Tuy nhiên, sau chuyến khảo sát và nhiều năm sau đó, Trung Quốc không quan tâm và có bất cứ động thái gì để thể hiện "chủ quyền" với quần đảo này, thậm chí Trung Quốc còn coi Hoàng Sa là cái "bẫy chết người", thường xuyên làm đắm tàu thuyền nước ngoài.

Cho tới ngày 14/7/1933, sau khi Pháp, lúc đó là chính quyền bảo hộ cho Việt Nam, khẳng định có chủ quyền với các thực thể ở Trường Sa, nội bộ Trung Quốc hoàn toàn không hay biết về sự tồn tại của Trường Sa, vẫn nhầm tưởng Trường Sa và Hoàng Sa là một. Trong một văn bản Bộ Hải quân Trung Quốc gửi Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày 19/7/1933 nhằm xác minh thông tin về việc Pháp khẳng định chủ quyền với Trường Sa, bộ này khẳng định "sau khi khảo sát, không thấy có đảo nào ở 10 độ vĩ Bắc, 150 độ kinh Đông giữa Việt Nam và Philippines".

Tuy nhiên, vì nghi ngờ kết luận trên của Bộ Hải quân, chính phủ Trung Quốc lúc đó thành lập một "Uỷ ban điều tra về bản đồ đất nước" và đã tiến hành 25 cuộc họp từ giữa năm 1933 đến cuối năm 1934. Ủy ban này lập nên một danh sách 132 đảo được coi là của Trung Quốc ở Biển Đông.


Bill Hayton tại hội thảo của CSIS ở Mỹ ngày 24/7. Ảnh: CSIS.

Theo Hayton, danh sách này được sao chép và biên dịch hoàn toàn từ tiếng Anh sang tiếng Trung từ một Bản đồ Thuỷ Văn về Biển Đông do Anh vẽ năm 1906. Trong bản danh sách sao chép đó, các tên đảo được phiên âm sang tiếng Trung từ tên tiếng Anh. Ví dụ, bãi James Shoal được dịch và phiên âm thành Bãi Tăng mẫu, Vanguard Bank (bãi Tư Chính của Việt Nam) thành Bãi Tiền vệ (sau này đổi tên thành Vạn An Bắc).

Trong quá trình sao chép và phiên âm, Trung Quốc vô tình sao chép cả các lỗi và nhầm lẫn từ Bản đồ Thuỷ Văn của người Anh mà không hay biết. Nhiều thực thể trong danh sách không tồn tại trên thực địa vẫn được Trung Quốc đưa vào danh sách.

Cho tới năm 1933, Trung Quốc chưa bao giờ quan tâm, có yêu sách, và cũng chưa bao giờ khảo sát toàn bộ Biển Đông.

"Tuy nhiên, người Anh biết rõ các nhầm lẫn của mình nên đã nhận ra các nhầm lẫn y hệt trong danh sách đảo mà Trung Quốc sao chép", Bill Hayton nói.

Một bằng chứng khác về việc Trung Quốc hoàn toàn không có thông tin về các thực thể ở Biển Đông là Trung Quốc đã máy móc dịch tên đảo và hiểu sai hoàn toàn bản chất các thực thể ở Biển Đông. Bãi ngầm, trong tiếng Anh gọi là "shoal", đã được Trung Quốc dịch thành Bãi (滩 - Tan) và hiểu đó là các đảo, bãi nổi.


Bản đồ quần đảo châu Á, do Công ty Eastward Stanford xuất bản năm 1918.

Vì nhầm tưởng các bãi ngầm Tăng Mẫu (James shoal) và Vạn An Bắc (Vanguard bank) là bãi nổi, năm 1936, Bạch Mai Sơ, một nhà địa lý học Trung Quốc đã vẽ một đường nét liền bao quanh các "đảo" trên Biển Đông, lấn sâu xuống phía nam và phía tây Biển Đông để thể hiện cái gọi là chủ quyền ở Biển Đông của Trung Quốc. Bản Đồ của Bạch Mai Sơ sử dụng có nguồn gốc từ bản đồ năm 1918 của Anh về Biển Đông.

"Sự thiếu hiểu biết và sai lầm nghiêm trọng của Trung Quốc về Biển Đông đã khiến 'đường 9 đoạn' có hình thù như hiện nay", Hayton nhận định.

Trịnh Tư Ước và Phó Giác Kim, hai sinh viên giúp Bạch Mai Sơ vẽ đường chữ U liền đoạn sai lầm nói trên, đã được tuyển dụng vào Bộ Nội vụ Trung Quốc vào năm 1946 và được giao nhiệm vụ xác lập biên giới quốc gia sau khi Thế chiến II kết thúc. Dựa trên bản đồ đường chữ U sai trái mà họ hỗ trợ vẽ năm 1936, họ đã tiếp tục dựng lên bản đồ đường chữ U 11 đoạn đầu tiên cho chính phủ Trung Quốc vào năm 1947.


Bản đồ đường chữ U đầu tiên Bạch Mai Sơ xuất bản năm 1936 là đường quy thuộc các "đảo" ở Biển Đông. Ảnh: Bill Hayton.

Yêu sách này cũng đã liên tục thay đổi trong nửa đầu thế kỷ 20. Hayton cho rằng nếu vào những năm 1930 - 1950, Trung Quốc thực sự hiểu biết về trạng thái địa lý các thực thể trên Biển Đông, đường chữ U mà Trung Quốc vẽ ra ở Biển Đông có thể bé hơn nhiều lần so với đường chữ U hiện nay.

"Minh chứng lịch sử nêu trên cho thấy cái gọi là yêu sách 'đường 9 đoạn' hiện nay của Trung Quốc là một yêu sách rất mới xuất phát từ sự thiếu hiểu biết và các nhầm lẫn của Trung Quốc về Biển Đông", theo Bill Hayton. Hayton thậm chí còn cho rằng "đường 9 đoạn" còn ít tuổi hơn cả bố mẹ của ông, "chứ không phải đã có từ nghìn đời nay như Trung Quốc thường nói".

Hayton cho rằng nhầm lẫn của Trung Quốc trong lịch sử là nguồn gốc chính của tranh chấp Biển Đông hiện nay. Vì vậy, một hướng tìm giải pháp cho tranh chấp Biển Đông hiện nay là làm rõ sự thật lịch sử.

"Đài Loan là nơi lưu trữ tất cả các hồ sơ của Trung Quốc những năm 1930 - 1940. Họ có thể nắm giữ chìa khoá quan trọng cho tranh chấp Biển Đông hiện nay", Hayton gợi ý.

Trường An/ VnExpess (từ Washington D.C)
0

Hạ viện Mỹ kêu gọi Trung Quốc ngừng bắt nạt Việt Nam ở Biển Đông

Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ ra tuyên bố kêu gọi Trung Quốc rút tàu và chấm dứt hành vi bắt nạt, vi phạm chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông.


Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ Eliot L. Engel. Ảnh: AFP.

"Các hành động hung hăng gần đây của Trung Quốc ở Biển Đông là minh chứng đáng lo ngại về một quốc gia công khai phớt lờ luật pháp quốc tế. Theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), các hành động của Trung Quốc là hành vi vi phạm chủ quyền của Việt Nam và các quyền hợp pháp của họ trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ). Ngoài ra, các hành vi của Trung Quốc còn đe dọa lợi ích của các công ty Mỹ hoạt động trong khu vực", Eliot L. Engel, Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ ngày 26/7 ra tuyên bố.

Ông Engel cho biết kể từ khi các thông tin về việc tàu khảo sát dầu khí của Trung Quốc vào EEZ Việt Nam phủ sóng trên truyền thông từ tuần trước, Việt Nam đã nhiều lần yêu cầu Trung Quốc rút tàu nhưng Bắc Kinh cố tình phớt lờ.

"Kiểu quấy rối này là mối đe dọa đối với Việt Nam và là bằng chứng cho thấy Trung Quốc sẵn sàng bắt nạt các nước láng giềng. Những sự cố như thế này chứng tỏ Trung Quốc ngang nhiên coi thường luật pháp và ngoại giao quốc tế", ông nói thêm.

"Tôi đứng về phía Việt Nam và các đối tác khu vực để lên án hành vi hung hăng này. Cộng đồng quốc tế phải tiếp tục duy trì trật tự và luật pháp quốc tế. Tôi kêu gọi Trung Quốc rút ngay lập tức tất cả tàu khỏi vùng biển của các nước láng giềng và chấm dứt các chiến thuật bắt nạt bất hợp pháp này", Engel tuyên bố.

Nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 trong những ngày qua có các hoạt động vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông. Việt Nam đã có nhiều biện pháp giao thiệp ngoại giao phù hợp, trao công hàm phản đối cho phía Trung Quốc, yêu cầu rút ngay khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Các lực lượng chức năng của Việt Nam đã triển khai các biện pháp phù hợp, đúng pháp luật.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao nhấn mạnh lập trường nhất quán của Việt Nam là kiên quyết, kiên trì đấu tranh bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế và UNCLOS trước bất cứ hành vi nào xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trên các vùng biển được xác định phù hợp với UNCLOS.

Trong cuộc họp báo ngày 22/7, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng nói rằng "tình hình Biển Đông nhìn chung vẫn ổn định", đổ ngược cho "các thế lực bên ngoài", trong đó có Mỹ, "từ lâu đã đưa ra những bình luận nhằm khuấy động rắc rối và gieo rắc hiềm khích".

Bộ Ngoại giao Mỹ ngày 20/7 cũng ra thông cáo với tiêu đề "Sự áp bức của Trung Quốc với hoạt động dầu khí trên Biển Đông", bày tỏ ngại trước những báo cáo về việc Bắc Kinh có hành vi can thiệp hoạt động khai thác dầu khí trong khu vực, bao gồm hoạt động thăm dò và khai thác lâu nay của Việt Nam.

Phương Vũ/VnExpress
0

[TV 3] Tin Biển Đông: Đối đầu Bãi Tư Chính



Bã Tư Chính: Tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất số 8 của TQ đang được các tàu đánh cá vỏ thép "Quỳnh Tam Sa Ngư" bảo vệ. Những tàu này được cho là thuộc lực lượng dân quân biển Trung Quốc.

Tin tức về vụ đối đầu xung quanh bãi Tư Chính, Nhà giàn DK1, Lô dầu khí 06.1.
0

Gia hạn hoạt động giàn khoan ở Bãi Tư Chính, Việt Nam tiếp tục cứng rắn trước Trung Quốc


Giàn khoan Hakuryu 5 hoạt động trên Biển Đông vào ngày 29/4/2018.

Việt Nam vừa ra thông báo rộng rãi về việc gia hạn thời gian hoạt động của giàn khoan Hakuryu 5 tại Lô 06.1 bể Nam Côn Sơn, phía tây bắc Bãi Tư Chính, một động thái được cho là “bất tuân” tiếp theo của Hà Nội sau khi khước từ yêu cầu của Bắc Kinh hồi tháng 6 là rút lại giàn khoan này, dẫn đến việc Bắc Kinh thực hiện lời đe dọa “hành động mạnh” bằng việc đưa tàu thăm dò Hải Dương Địa Chất 8 đến khu vực, theo tiết lộ của một chuyên gia nghiên cứu với VOA.

Trong khi các dữ liệu theo dõi cho thấy tàu thăm dò Hải Dương Địa Chất 8 của Trung Quốc vẫn tiếp tục hoạt động gần khu vực Bãi Tư Chính ở Biển Đông bất chấp phản đối từ phía Việt Nam và chỉ trích của Mỹ, một số nguồn tin cho hay Bắc Kinh đã yêu cầu Hà Nội rút giàn khoan ở khu vực này đi và đổi lại, Trung Quốc sẽ rút các tàu của họ. Nhưng Việt Nam bác bỏ đề nghị này.

Trao đổi với VOA hôm 25/7, TS. Hà Hoàng Hợp xác nhận thông tin về những đòi hỏi của Trung Quốc hồi tháng 6.

“Đúng là họ có trao đổi với một số nơi ở Việt Nam điều kiện như thế”, TS. Hà Hoàng Hợp khẳng định với VOA. “Họ đòi Việt Nam phải bắt công ty Nhật và công ty Nga phải rút khỏi chỗ đấy. Nếu không rút thì họ sẽ có hành động mạnh”.

Trung Quốc đã thực hiện lời đe dọa bằng cách đưa con tàu dài 88 met, rộng 20,4 met, với tổng trọng tải 6.918 tấn đến “thăm dò” trong khu vực gần Bãi Tư Chính kể từ ngày 3/7. Vụ việc đã đẩy căng thẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc lên đến đỉnh điểm kể từ sau vụ Trung Quốc đưa giàn khoan HD-981 vào Biển Đông năm 2014.

Thông báo của Tổng Công ty Bảo đảm An toàn Hàng hải miền Nam, thuộc Bộ Giao thông Vận tải, được truyền thông Việt Nam trích dẫn ngày 25/7 cho biết hoạt động khoan của khu vực Lô 06.1 bể Nam Côn Sơn do công ty Rosneft Việt Nam B.V. (công ty con của Công ty Rosneft của Nga) “dự kiến kéo dài đến hết ngày 15/9/2019”.

Trang Twitter IndoPacific_SCS_Info, nơi thường xuyên cập nhật tin tức về Biển Đông, nói rằng hoạt động của giàn khoan Hakuryu 5 lẽ ra chấm dứt vào ngày 30/7 theo như kế hoạch ban đầu, nhưng “Việt Nam không lùi bước”.

Theo phân tích của TS. Hà Hoàng Hợp, động thái thông báo gia hạn từ phía Việt Nam là “có và không” liên quan đến căng thẳng ở Bãi Tư Chính.

TS. Hà Hoàng Hợp nói việc gia hạn là do các công ty khai thác dầu khí của Nga, Nhật thực hiện và Bộ Giao thông Vận tải Việt Nam ra thông báo là để tàu bè đi lại có thể tránh xa khu vực này.

Hợp đồng ban đầu nói có khả năng [hoạt động khai thác] kéo dài 60-90 ngày. Mà bắt đầu khoan từ ngày 29/6 tới giờ chưa được một tháng, thì phải khoan thêm thì mới đạt kết quả về mặt kỹ thuật”, Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp nói với VOA.

Còn yếu tố “có liên quan”, theo ông, là vì Trung Quốc đã từng yêu cầu Việt Nam rút giàn khoan này đi nhưng phía Việt Nam khước từ.

Theo chuyên gia của Viện Nghiên Đông Nam Á ISEAS, động thái thông báo gia hạn hoạt động từ phía Việt Nam tái khẳng định một lần nữa rằng đòi hỏi của Bắc Kinh là “không hợp lý”.

Người Nga đã khai thác ở chỗ đó từ năm 2013, sau khi mua lại cổ phần từ công ty BP của Anh quốc và một cố phần nhỏ của công ty Conoco Philips. Từ đó đến giờ họ làm rất tốt, và ai cũng khẳng định khu vực đó là thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, không tranh cãi được”.

Trong một diễn tiến cùng ngày 25/7, người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng lặp lại lần thứ 3 rằng Việt Nam “kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền” và đã trao công hàm phản đối cho phía Trung Quốc về hoạt động của Hải Dương Địa Chất 8. Đây được xem là phản ứng mạnh nhất từ trước đến nay từ phía Việt Nam liên quan đến những vụ xung đột căng thẳng với Trung Quốc trên Biển Đông.

Theo VOA
0

Bộ Ngoại giao nói về khu vực bãi Tư Chính, giàn khoan DK1 đang bị Trung Quốc xâm phạm

Nói về vị trí lô dầu khí 06-1 tại bãi Tư Chính và giàn khoan DK1 mà Việt Nam đang khai thác nhưng bị nhóm tàu Hải Dương 8 của Trung Quốc xâm phạm, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng khẳng định: “Lô 06-1 nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Hành động của Trung Quốc là vụ việc nghiêm trọng”.


Nghe:


Chiều 25/7, tại cuộc họp báo thường kỳ Bộ Ngoại giao, báo giới bày tỏ sự quan tâm đặc biệt tới diễn biến căng thẳng trên Biển Đông và hành động gây hấn của Trung Quốc tại khu vực bãi Tư Chính của Việt Nam.

Theo đó, hàng loạt câu hỏi liên quan đến vụ việc được đặt ra: Vị trí hiện tại của nhóm tàu Hải Dương 8 Trung Quốc là ở đâu? Cho đến thời điểm này Việt Nam đã làm gì để giải quyết xung đột? Trong trường hợp những nỗ lực ngoại giao và biện pháp Việt Nam đã làm trong thời gian qua chưa đem lại hiệu quả thì bước tiếp theo Việt Nam sẽ làm gì để giải quyết bất đồng?

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng nhấn mạnh vụ việc nghiêm trọng này đã được đề cập trong các phát biểu trước đây. Như đã nhiều lần khẳng định, Việt Nam kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán như đã được xác lập tại Công ước Liên Hợp quốc về Luật biển 1982 bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế.

“Việt Nam đã có nhiều hình thức giao thiệp ngoại giao phù hợp, trao công hàm phản đối phía Trung Quốc, yêu cầu các tàu rút ngay khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.” - bà Lê Thị Thu Hằng nêu rõ quan điểm.

Cũng theo người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, các lực lượng chức năng Việt Nam triển khai các biện pháp phù hợp đúng pháp luật, duy trì hòa bình ổn định, đảm bảo tự do hàng không, hàng hải, đề cao thượng tôn pháp luật, tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của các quốc gia như được xác lập tại công ước của Liên hợp quốc về luật Biển năm 1982 là lợi ích và trách nhiệm chung của các nước và cộng đồng quốc tế.

“Việt Nam hoan nghênh và sẵn sàng cùng các nước và cộng đồng quốc tế nỗ lực đóng góp vào mục tiêu nói trên vì hòa bình, ổn định hợp tác và phát triển của tất cả các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.” - bà Hằng nhấn mạnh.


Lô 06-1 Việt Nam đang khai thác, nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. (ảnh: PVN)

Trước đề nghị xác định vị trí lô 06-1 gần bãi Tư Chính và giàn khoan DK1 mà Việt Nam đang khai thác nhưng bị nhóm tàu Hải Dương 8 của Trung Quốc gây hấn, Người phát ngôn Lê Thị Thu Hằng nêu rõ: “Lô 06-1 nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam”.

Châu Như Quỳnh/ Dân Trí
0

Việt Nam kiên quyết bảo vệ quyền chủ quyền ở Biển Đông

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao hôm nay tuyên bố Việt Nam sẽ kiên quyết bảo vệ chủ quyền và lợi ích theo UNCLOS ở Biển Đông, đồng thời hoan nghênh đóng góp tích cực của cộng đồng quốc tế.


Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng. Ảnh: BNGVN


Nghe:


"Về vụ việc nghiêm trọng này, chúng tôi đã đề cập nhiều lần trong các phát biểu trước đây. Việt Nam kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán đã được xác lập tại Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS) bằng các biện pháp hoà bình, trên cơ sở của luật pháp quốc tế", người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng nói trong họp báo hôm nay.

Tuyên bố được bà Hằng đưa ra khi trả lời câu hỏi về các biện pháp của Việt Nam sau khi nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 trong những ngày qua có các hoạt động vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông.

Người phát ngôn nêu rõ Việt Nam đã có nhiều biện pháp giao thiệp ngoại giao phù hợp, trao công hàm phản đối cho phía Trung Quốc, yêu cầu rút ngay khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Các lực lượng chức năng của Việt Nam đã triển khai các biện pháp phù hợp, đúng pháp luật.

"Duy trì hoà bình, ổn định và tự do hàng hải, hàng không, đề cao thượng tôn pháp luật, tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của các quốc gia như được xác lập tại UNCLOS là lợi ích và trách nhiệm chung của các nước và cộng đồng quốc tế. Việt Nam hoan nghênh và sẵn sàng cùng cộng đồng quốc tế nỗ lực đóng góp vào mục tiêu nói trên, vì hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới", bà Hằng nói.
0

Vì sao Trung Quốc gây hấn tại bãi Tư Chính của Việt Nam?

Đây là nhận định được GS. TS. Luật sư Nguyễn Bá Diến, Chủ tịch Viện Nghiên cứu Khoa học Biển và Hải đảo, đưa ra trong bối cảnh, trong những tuần qua, nhóm tàu khảo sát Hải Dương Địa chất 8 (Haiyang Dizhi 8) của Trung Quốc có hành vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông.


Tàu khảo sát Hải Dương Địa chất 8 của Trung Quốc đang có những hành vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông. Ảnh: SCMP.


Nghe:


Phép thử cho tham vọng lâu dài

Theo Giáo sư Diến, vấn đề Biển Đông cũng như tham vọng độc chiếm Biển Đông đã được Trung Quốc lên chiến lược và “lập trình” từ rất lâu và được phôi thai ngay từ khi thành lập nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (1949) với tham vọng vươn lên làm bá chủ thế giới.

Để đạt được tham vọng này, Trung Quốc phải trở thành cường quốc biển, phải độc chiếm và thống trị Biển Đông - kho tài nguyên thiên nhiên (hải sản và khoáng sản, dầu mỏ, khí đốt, băng cháy) giàu có và tuyến hàng hải quan trọng nhất của thế giới. Vì vậy, ngay trong tuyên bố của mình năm 1958, khi ban hành Luật về Lãnh hải, Trung Quốc đã ngang nhiên tuyên bố “Trung Quốc có chủ quyền đối với Tây Sa và Nam Sa” (trên thực tế là quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam).

Trong các tài liệu nghiên cứu của Trung Quốc, ngay từ những năm 60 của thế kỷ trước, đều khẳng định, Biển Đông là “bể cá vàng” là “con đường sinh mệnh” là “yết hầu” của Trung Quốc. Đặc biệt là sau báo cáo của Ủy ban Kế hoạch Kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương của Liên Hợp Quốc từ năm 1969 dự báo Biển Đông là một nơi giàu tài nguyên thiên nhiên, đặc bệt là dầu mỏ và khí đốt, Trung Quốc bắt đầu “để mắt” đến Biển Đông.

Đến năm 1992, Trung Quốc ngang ngược ký hợp đồng thăm dò dầu khí trên bãi Tư Chính của Việt Nam với một công ty tư nhân của Mỹ tên là công ty Crestone. Hợp đồng phi pháp này đã bị Việt Nam và cả Bộ ngoại giao Hoa Kỳ phản đối. Đến năm 2009, Trung Quốc chính thức đệ trình lên Liên Hợp Quốc yêu sách “đường lưỡi bò” phi pháp, “nuốt trọn” gần như toàn bộ Biển Đông, vi phạm các chuẩn tắc cơ bản Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên Hợp Quốc mà Trung Quốc đã cam kết.

Trung Quốc muốn “giải cơn khát năng lượng ngày càng tăng với cấp số nhân” và đảm bảo về mặt an ninh năng lượng để phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế rất mạnh với tham vọng vươn lên siêu cường và “Cảnh sát trưởng thế giới”. Các chuyên gia và nhà cầm quyền Trung Quốc từ lâu đã dự báo về sự “khát năng lượng” của nước này. Hiện nay, Trung Quốc đang nhập khẩu tới gần 60% dầu mỏ, đến năm 2030, con số này sẽ tăng lên 66,6% và đến năm 2040 sẽ là 75%.

Hơn thế nữa, khoảng hơn 7 năm nay, xung đột tại khu vực Trung Đông-Bắc Phi mà gần đây nhất là những diễn biến căng thẳng giữa Mỹ và Iran, nơi lượng dầu mỏ của Trung Quốc chủ yếu được nhập về qua eo biển Hormuz, khiến Trung Quốc cảm thấy bất an. Nếu căng thẳng leo thang, Iran hoàn toàn có thể tính đến phương án phong tỏa eo biển này. Điều này khiến Trung Quốc gặp muôn vàn khó khăn khi chính các chuyên gia của nước này ước tính, tổng dự trữ dầu mỏ của Trung Quốc không vượt quá 10-15 ngày.

Cũng theo Giáo sư Diến, hành vi của Trung Quốc ở bãi Tư Chính chính là cách để nước này “thử phản ứng” của Việt Nam như đã từng xảy ra khi nước này kéo giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng biển của Việt Nam hồi năm 2014. Trung Quốc cũng muốn thông qua hành động này để “nắn gân” Mỹ trong bối cảnh hai bên vẫn đang có tranh chấp về thương mại.

Trong khi đó, theo Giáo sư Diến, soi chiếu từ vị trí địa lý để xem xét trên khía cạnh pháp lý, đặc biệt là chiểu theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS 1982) – bản “Hiến pháp về Đại dương” và Phán quyết Tòa Trọng tài Quốc tế ngày 12/7/2016, được thành lập theo UNCLOS 1982 – bãi Tư Chính hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

Hành động pháp lý- “nỏ thần” thời hiện đại của Việt Nam

Giáo sư Diến giải thích, bãi Tư Chính (mà Trung Quốc gọi là bãi Vạn An Bắc) nằm cách bờ biển Vũng Tàu 160 hải lý và cách bờ biển Đảo Hải Nam của Trung Quốc hơn 600 hải lý. Trong khi đó, theo UNCLOS, một quốc gia ngoài vùng nội thủy và lãnh hải thì từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải, quốc gia ven bờ được quyền có vùng đặc quyền kinh tế tối đa 200 hải lý và có vùng thềm lục địa tối thiểu là 200 hải lý và tối đa là không quá 350 hải lý tính từ đường cơ sở hoặc cách đường đằng sau 2.500m nước một khoảng cách là 100 hải lý.

Như vậy, vùng thềm lục địa của Trung Quốc không thể kéo dài đến bãi Tư Chính. Không thể nói bãi Tư Chính nằm trong vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của Trung Quốc. Trong khi đó, cũng chiểu theo UNCLOS, bãi Tư Chính nằm trong phạm vi 200 hải lý vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.

Phán quyết Tòa Trọng tài Quốc tế ngày 12/7/2016, cũng đã bác bỏ yêu sách phi lý đường lưỡi bò của Trung Quốc, đồng thời nêu rõ các thực thể ở ngoài khơi Biển Đông, bao gồm một số thực thể ở Trường Sa chỉ có thể có lãnh hải 12 hải lý; không một thực thể nào có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa (theo Khoản 3 Điều 121 UNCLOS).

Từ lâu, Việt Nam cũng đã thực hiện quyền chủ quyền đối với bãi Tư Chính. Ngay từ năm 1971, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã cho tiến hành phân lô đấu thầu thăm dò khai thác. Năm 1988, Chính phủ Cộng hòa XHCN Việt Nam cũng đã phân lô và mời các nhà thầu nước ngoài đến thăm dò, khai thác dầu khí tại đây.

Đến năm 1994, Việt Nam cũng đã ký hợp đồng với một công ty năng lượng lớn của Mỹ là ExxonMobil để khai thác lô dầu khí ở bãi Thanh Long cùng nằm trong phạm vi bãi Tư Chính. Từ năm 1989 cho đến nay, Chính phủ Việt Nam đã thiết lập Cụm Kinh tế, Khoa học và Dịch vụ có các trạm, nhà chòi, giàn khoan và đèn biển để tạo thuận tiện và hỗ trợ cho giao thông hàng hải, đánh bắt hải sản, nghiên cứu khoa học và các hoạt động thăm dò khai thác dầu khí. Như vậy, có thể thấy, Việt Nam đã thực hiện quyền chủ quyền đối với bãi Tư Chính hoàn toàn phù hợp với pháp luật cũng như theo đúng UNCLOS.


Khu vực nhà giàn DK1, trong đó có Bãi Tư Chính, nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý tính từ đường cơ sở của Việt Nam.

Theo Giáo sư Diến: “Hành vi của Trung Quốc là đi ngược lại hoàn toàn phán quyết của Tòa Trọng tài Quốc tế trong vụ Philippines kiện Trung Quốc ở Biển Đông- nơi Trung Quốc từng thực hiện chính sách 3 không: “Không thừa nhận thẩm quyền, không tham gia tố tụng và không chấp nhận phán quyết” nhằm vô hiệu hóa trên thực địa phán quyết Tòa Trọng tài Quốc tế ngày 12/7/2016, được thành lập theo Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên Hợp Quốc. Điều này cho thấy Trung Quốc sẵn sàng dẫm đạp lên các nguyên tắc cơ bản nhất của luật pháp quốc tế và cho thấy sự ngang ngược và nguy hiểm của những âm mưu và các hành vi này”.Trong khi đó, trong những ngày qua, các tàu Hải cảnh của Trung Quốc đã có những hành vi đe dọa sử dụng vũ lực đối với các tàu của Việt Nam ở bãi Tư Chính. Các cơ quan chức năng Việt Nam đã sử dụng mọi biện pháp để yêu cầu Trung Quốc chấm dứt các hành động của mình. Trên thực địa, các lực lượng chấp pháp Việt Nam cũng đã dùng các phương tiện, thiết bị, kể cả loa phát bằng tiếng Việt, tiếng Trung Quốc, tiếng Anh để tuyên bố hành động của Trung Quốc là vi phạm pháp luật và xâm phạm quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam nhưng vẫn bị phía Trung Quốc trắng trợn phớt lờ.

Để đối phó với những hành động sai trái của Trung Quốc, Giáo sư Diến cho rằng, Việt Nam cần ưu tiên giải quyết tranh chấp trên Biển Đông dựa trên nguyên tắc thượng tôn pháp luật, dựa trên các cơ sơ pháp lý bao gồm Hiến chương Liên Hợp Quốc, UNCLOS, thỏa thuận giữa ASEAN với Trung Quốc và nhận thức chung của lãnh đạo Việt Nam và Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông.

Giáo sư Diến khẳng định: “Các biện pháp pháp lý là giải pháp căn cơ, bền vững và lâu dài, văn minh, phù hợp với sự thật khách quan, phù hợp với xu thế chung của nhân loại và nhận được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Đây cũng là giải pháp ưu việt nhất, tối ưu nhất, là “bảo kiếm”, là “nỏ thần” của Việt Nam thời hiện đại. Việc chậm trễ sử dụng các biện pháp pháp lý có thể khiến chúng ta phải trả giá nặng nề hơn”.

Theo Hương Giang-Trần Khánh/ VOV.vn
0

Ba việc “rất quan trọng” Việt Nam phải làm để đấu tranh với Trung Quốc

Đại sứ Phạm Quang Vinh - nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam - đã nhấn mạnh như vậy trong cuộc trao đổi với PV Dân trí về việc nhóm tàu Hải Dương 8 của Trung Quốc xâm phạm vùng biển phía nam của Việt Nam (bãi Tư Chính) và bối cảnh Bắc Kinh “phớt lờ” yêu cầu của chúng ta về chấm dứt các hành vi vi phạm.


Nghe:


- Phóng viên: Thưa Đại sứ, những ngày qua Trung Quốc gia tăng hoạt động phi pháp, xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, đặc biệt tại bãi Tư Chính. Xin Đại sứ cho biết những ảnh hưởng của tình hình này tới cục diện Biển Đông và quan hệ hai nước?

- Đại sứ Phạm Quang Vinh: Chúng ta phải khẳng định rất rõ ràng rằng, đây là vùng biển hoàn toàn của Việt Nam, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam theo luật pháp quốc tế, Công ước Luật biển 1982. Các tàu của Trung Quốc đã xâm phạm vào vùng biển hợp pháp của Việt Nam, vi phạm luật pháp quốc tế, và là điều không thể chấp nhận được.

Việt Nam chủ trương hòa bình, hòa hiếu, mong muốn vun đắp quan hệ tốt đẹp với Trung Quốc, nhưng Việt Nam cũng kiên quyết bảo vệ chủ quyền biển đảo của mình. Do đó, chúng ta cần phải nói rõ với Trung Quốc về những vi phạm đó, Việt Nam không thể chấp nhận và vận động để công luận lên tiếng phản bác những hành động phi pháp này.

Mặt khác, Trung Quốc thường viện dẫn, thậm chí sử dụng vị thế, sức mạnh, để áp đặt yêu sách “đường lưỡi bò” phi lí của mình. Đây là điều trái với luật pháp quốc tế và bị thế giới bác bỏ.

- Trung Quốc tiếp tục đưa ra yêu sách “đường lưỡi bò” và cố tình bành trướng nhằm độc chiếm Biển Đông. Nhiều ý kiến cho rằng những hành động gây hấn của Trung Quốc là để tạo áp lực “bắt buộc” các nước phải công nhận “đường lưỡi bò” phi pháp. Đại sứ có bình luận gì?

- Câu chuyện cần nhấn mạnh ở đây là luật pháp quốc tế và luật pháp quốc tế phải được tuân thủ, dù đó là ai. “Đường lưỡi bò” của Trung Quốc không chỉ trái với luật pháp quốc tế, mà còn làm phức tạp thêm tình hình, vì nó xâm phạm vùng biển hợp pháp của các nước, mưu toan biến những vùng biển hợp pháp của nước khác thành khu vực của Trung Quốc hay khu vực có tranh chấp.

Hơn nữa, chính “đường lưỡi bò” phi lí và chính sách áp đặt bằng sức mạnh nêu trên đã làm gia tăng căng thẳng, mở rộng tranh chấp, ảnh hưởng tới hòa bình, an ninh, tự do hàng hải trên Biển Đông, tới việc hợp tác, xây dựng lòng tin ở khu vực. Đây là điều không ai có thể chấp nhận. Dư luận thế giới, các nước trong và ngoài khu vực, cộng đồng quốc tế đều phản bác, không chấp nhận yêu sách phi lý này của Trung Quốc.

Đại sứ Phạm Quang Vinh trao đổi với PV Dân trí về việc nhóm tàu Hải Dương 8 của Trung Quốc xâm phạm vùng biển phía nam của Việt Nam
Cũng phải nhấn mạnh rằng, Phán quyết của Tòa án quốc tế ngày 12/7/2016, nhất là phần đã tuyên về áp dụng Công ước Luật biển là một phần của luật pháp quốc tế và sẽ mãi giữ nguyên giá trị pháp lý, trong đó khẳng định Công ước Luật biển không chấp nhận “các yêu sách lịch sử” và hoàn toàn bác bỏ “đường lưỡi bò” của Trung Quốc.

Biển đông là khu vực địa chiến lược, rất quan trọng về giao thông hàng hải, hàng không và thông thương thương mại, kinh tế quốc tế. Do đó, tất cả các nước đều có lợi ích và cần nỗ lực đóng góp vào việc duy trì trật tự, hòa bình, an ninh hàng hải ở Biển Đông.

- Năm 2014, Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981 tới vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam. Lần này, Trung Quốc điều nhóm tàu đi sâu vào thềm lục địa và xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Những vi phạm trắng trợn của Trung Quốc ngày càng nghiêm trọng cả về tính chất và mức độ, thưa Đại sứ?

- Chúng ta không nên võ đoán, nhưng có một điểm cần lưu ý là Trung Quốc đã nhiều lần vi phạm luật pháp quốc tế, xâm phạm vùng biển các nước. Một khi có vi phạm đối với chủ quyền biển đảo của mình thì chắc chắn chúng ta phải bảo vệ, lên tiếng với Trung Quốc, với khu vực và cộng đồng quốc tế.

Tuyên bố của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam ngày 19/7 là rất xác đáng, thể hiện rõ chính nghĩa, chủ trương hòa bình, kiên quyết bảo vệ các vùng biển hợp pháp của mình, giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, phù hợp với việc luật pháp quốc tế, Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982.

Hành động của Trung Quốc xâm phạm vùng biển hợp pháp của các nước, mưu toan biến những vùng biển hợp pháp của nước khác thành khu vực của Trung Quốc hay khu vực có tranh chấp
Mặt khác, như trên đã nhấn mạnh, Biển Đông không chỉ là lợi ích của các nước trong khu vực mà còn là lợi ích của tất cả các nước trên thế giới. Vì vậy, để bảo đảm hòa bình, an ninh, an toàn, tự do hàng hải, hàng không trên Biển Đông đòi hỏi các nước đều phải có trách nhiệm, có tiếng nói.

Thời gian qua, Việt Nam đã triển khai rất phù hợp, khéo léo và kiên quyết, tổng hợp các biện pháp, thể hiện được sự chính nghĩa, chủ trương hòa bình, hòa hiếu và nhấn mạnh luật pháp quốc tế, Công ước Luật biển.

- Trên thực tế, Bắc Kinh “phớt lờ” quan điểm và thiện chí của chúng ta về hòa bình, hòa hiếu. Đông đảo nhân dân Việt Nam đang kỳ vọng về những hành động mạnh mẽ để yêu cầu Trung Quốc chấm dứt hoàn toàn những hoạt động phi pháp. Theo Đại sứ, Việt Nam cần phải làm gì?

- Chúng ta cần phải đặt lại câu hỏi mà báo nêu trên, cái chính, đó là làm sao vừa giữ hòa bình, vừa bảo đảm chủ quyền biển đảo hợp pháp của mình. Có nhiều việc phải làm, nhưng có ba việc rất quan trọng cần làm trong bối cảnh hiện nay.

Một là, Việt Nam phải kiên trì đối thoại với Trung Quốc, nói rõ chủ trương hòa bình, quan hệ, nhưng chúng ta cũng cần phản bác và nói rõ vi phạm, yêu cầu Trung Quốc tôn trọng các vùng biển hợp pháp của Việt Nam. Hai là, công luận, áp lực của quốc tế là rất quan trọng, vì vậy chúng ta cần phải tiếp tục thông tin, vận động công luận, cả với khu vực và thế giới, phản đối những hành vi vi phạm của Trung Quốc, yêu cầu Trung Quốc tuân thủ luật pháp quốc tế. Ba là, lực lượng chức năng của Việt Nam phải tiếp tục hiện diện và thực thi pháp luật trên biển.

Trung Quốc cũng phải thể hiện trách nhiệm, cũng là vì chính lợi ích, vị thế, môi trường cho phát triển của mình, thì Trung Quốc phải tôn trọng, tuân thủ luật pháp quốc tế, xây dựng lòng tin và xây dựng môi trường láng giềng hòa bình - thân thiện trong khu vực một cách thực chất và hiệu quả.

- Mới đây lực lượng Tuần duyên Mỹ khẳng định cam kết hợp tác chặt chẽ với Cảnh sát biển Việt Nam đảm bảo tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông trong bối cảnh Trung Quốc tăng hiện diện quân sự, đồng thời sẽ có những động thái cụ thể nhằm ngăn chặn hành vi vi phạm của Trung Quốc. Đại sứ đánh giá như thế nào về sự hợp tác này?

- Ở đây có hai việc cần phân biệt rất rõ: Một là, hợp tác chung, vì hoà bình, ổn định ở khu vực, ta đã làm với nhiều nước, cả với ASEAN, Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ... Hai là, ta nhất quán chủ trương không đi với nước này để chống lại nước khác.

Chính sách quốc phòng an ninh của chúng ta là hoà bình, tự vệ và bảo vệ tổ quốc. Ta đã tranh thủ nhiều nước để xây dựng năng lực của mình bao gồm cả về năng lực an ninh hàng hải, chấp pháp trên biển. Ta cũng tham gia các hoạt động hợp tác của ASEAN ở khu vực.

ASEAN, các nước trong và ngoài khu vực đã có nhiều hình thức và đang đẩy mạnh các lĩnh vực hợp tác trên biển, nhằm tăng cường hiểu biết, xây dựng lòng tin, ứng phó với các thách thức, nhất là an ninh phi truyền thống như tìm kiếm cứu nạn, ứng phó thiên tiên, chống cướp biển hay các loại tội phạm khác.

Biển Đông không chỉ là lợi ích của các nước trong khu vực mà còn là lợi ích của tất cả các nước trên thế giới. Vì vậy, để bảo đảm hòa bình, an ninh, an toàn, tự do hàng hải, hàng không trên Biển Đông đòi hỏi các nước đều phải có trách nhiệm, có tiếng nói.
Cần nhấn mạnh thêm ở đây là các nước cần nỗ lực, hợp tác đóng góp vào duy trì và bảo đảm trật tự, hoà bình, an ninh trên biển, trên cơ sở luật pháp quốc tế, Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982.

- Xin trân trọng cảm ơn Đại sứ!

Theo Dân Trí
0

Huy động toàn dân bảo vệ chủ quyền và phẩm giá dân tộc

Trung Quốc có tham vọng bành trướng chủ quyền lãnh thổ và tầm ảnh hưởng. Do vậy, các tổ chức quốc tế sẽ là nơi giải quyết những vấn đề này.


Nghe:


Chia sẻ với Tuần Việt Nam liên quan đến những căng thẳng do Trung Quốc gây ra ở bãi Tư Chính, Chủ tịch Viện Michael Dukakis, Cựu Thống đốc bang Massachusetts, Hoa Kì - ông Michael Dukakis cho rằng, Trung Quốc có tham vọng bành trướng chủ quyền lãnh thổ và tầm ảnh hưởng, do vậy, các tổ chức quốc tế sẽ là nơi giải quyết những vấn đề này.

Người Mỹ đánh giá thế nào về thái độ của nước Mỹ trước những diễn biến ở Biển Đông hiện nay? Ta xem nước Mỹ đã phản ứng thế nào qua tuyên bố của người phát ngôn Morgan Ortagus: “Trung Quốc nên chấm dứt hành vi áp chế, và kiềm chế các hoạt động khiêu khích và gây bất ổn này". Thực ra, nước Mỹ luôn phản đối sự áp chế và đe dọa của bất kỳ bên nào nhằm khẳng định yêu sách lãnh thổ hoặc hàng hải.

Rõ ràng, Trung Quốc đang phá hoại hòa bình và an ninh khu vực khi cải tạo và quân sự hóa các tiền đồn tranh chấp ở Biển Đông, sử dụng lực lượng dân quân hàng hải để khiêu khích, đe dọa, áp chế các nước khác nhằm khẳng định yêu sách hàng hải phi pháp ở vùng biển này.

Những gì đang diễn ra ở vùng Biển Đông thực sự đáng quan ngại vì đây là tuyến đường hàng hải quan trọng. Người ta ước tính rằng, hàng hóa trị giá hàng ngàn tỷ đô la được vận chuyển qua tuyến biển mỗi năm, chiếm khoảng 30% giao dịch hàng hải toàn cầu, bao gồm lượng lớn dầu và ngàn ngàn tỷ đô la thương mại hàng năm của Mỹ. Nước Mỹ có quyền lợi ở đây.

Nhìn lại sự kiện Trung Quốc hạ đặt giàn khoan HD-981 tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam năm 2014, Mỹ đã gọi đây là hành động đơn phương của Trung Quốc theo cách suy yếu hòa bình và ổn định trong khu vực, đồng thời bày tỏ quan ngại về cách làm nguy hiểm này. Hoa Kỳ kêu gọi các bên kiềm chế, đảm bảo tự do hàng hàng hải và giải quyết tranh chấp một cách hòa bình, phù hợp với pháp luật quốc tế.


Ông Michael Dukakis: "Tôi muốn nhấn mạnh lại, Việt Nam có thể xác lập vị thế với cả Mỹ và Trung Quốc một cách mạch lạc, rõ ràng".

Việt Nam có vị trí địa chính trị rất quan trọng vì ráp gianh với Biển Đông. Vậy nước Mỹ nhìn nhận Việt Nam thế nào trong chiến lược của mình ở Châu Á - Thái Bình Dương?

Tôi cho rằng, Việt Nam là một nước có quan hệ sâu sắc với Mỹ, chúng tôi muốn có mối quan hệ tốt đẹp với Việt Nam. Sau những gì đã xảy ra trong chiến tranh, nước Mỹ nợ người Việt Nam một số sự trợ giúp đặc biệt. Tôi vui vì chúng ta đang có một mối quan hệ tốt. Việt Nam có thể giúp đỡ Mỹ trong việc giải quyết một số vấn đề. Chúng tôi rất trân trọng và mong đợi điều đó.

Với Trung Quốc, thì như chúng ta đã biết, không dễ dàng gì. Trung Quốc có tham vọng bành trướng chủ quyền lãnh thổ và tầm ảnh hưởng. Do vậy, các tổ chức quốc tế sẽ là nơi giải quyết những vấn đề này.

Chẳng hạn, Philippines đã đệ đơn lên Toà án Công lý Quốc tế và họ đã nhận được phán quyết rằng Trung Quốc đã vi phạm luật pháp quốc tế. Trung Quốc đã nói họ không quan tâm đến kết quả đó nhưng tôi nghĩ, Trung Quốc rất quan tâm đấy. Bởi vì, khi bạn có một phán quyết đồng thuận tuyệt đối từ một tòa án quốc tế nói rằng bạn sai rồi, chắn chắn bạn sẽ không thể làm ngơ và hành xử tùy tiện.

Việt Nam hiện là đối tác thương mại hàng đầu của Mỹ và Trung Quốc. Việt Nam nên hành xử như những đối tác có vị trí với cả hai cường quốc này. Tôi muốn nhấn mạnh lại, Việt Nam có thể xác lập vị thế với cả Mỹ và Trung Quốc một cách mạch lạc, rõ ràng. Chẳng hạn, Việt Nam có thể giúp đỡ Mỹ trong vấn đề Triều Tiên. Đó chính là cách vận hành và hoá giải mọi vấn đề.

Không quan niệm "ai là kẻ thù", mà hãy nhìn nhận đó là những đối tác, quan hệ với tâm thế bình đẳng, không e ngại nước lớn, nước nhỏ, từ đó đóng góp những giá trị cho thế giới, hiền hoà, nhưng không để nước nào dù lớn bắt nạt hay lấn át. Muốn vậy, Việt Nam cần có cơ chế phát huy cao nhất sức mạnh tổng lực của 96 triệu người đầy nhiệt huyết, có tinh thần quật khởi bảo vệ độc lập, chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ phẩm giá dân tộc. Đó chính là sức mạnh lớn nhất của Việt Nam.
Trung Quốc đang làm điều tệ hại là xâm phạm quyền, chủ quyền quốc gia của Việt Nam trên Biển Đông. Vậy các bạn nên làm gì?

Thế hệ chúng tôi đã chứng kiến trong thế kỷ 20 sự đối đầu căng thẳng giữa Nga và Trung, hay Mỹ và Nga trong chiến tranh lạnh. Nhiều người trong số chúng tôi đã nghĩ đến một cuộc chiến tranh. Nhưng rốt cuộc, đối thoại đã giúp giải quyết vấn đề.

Khi có nguy cơ xảy ra xung đột, thậm chí là chiến tranh, điều cần làm là tạo nên một diễn đàn quốc tế để tất cả các quốc gia trên thế giới cùng thảo luận, hỗ trợ nhau để dàn xếp vấn đề một cách hoà bình, không để các nước nhỏ bị nước lớn bắt nạt, ăn hiếp.

Bên cạnh đó, nền hoà bình giữa các quốc gia hay trên thế giới được thiết lập chỉ khi tất cả chúng ta cùng chung tay xây dựng một chuẩn mực chung. Không một quốc gia nào có thể một mình làm việc này. Nước Mỹ không thể làm cảnh sát cho cả thế giới. Chúng tôi đã từng thử làm việc đó rồi, nhưng kết quả là không ổn và nó khiến chúng tôi gặp nhiều rắc rối. Để có chuẩn mực chung làm nền tảng cho hòa bình cần nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế. Tất cả các quốc gia phải tham gia vào việc này.

Thế giới cần có chuẩn mực, các quốc gia cần liên kết trên một chuẩn mực chung. Hiện tại chưa có một mô hình hoàn hảo, nhưng cần chấp nhận mô hình tốt nhất đang có, từ đó tiếp tục hoàn thiện nó. Nếu không chấp nhận một chuẩn mực xã hội chung thì sẽ gây ra xung đột, tranh chấp… Phải tôn trọng chuẩn mực chung đó là dân chủ, công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, tôn trọng luật pháp quốc tế, có trách nhiệm với môi trường.

Đó cũng là cách để giải quyết các cuộc xung đột. Nếu quốc gia này hoặc quốc gia kia quyết định làm theo cách riêng của mình, xâm phạm tới quyền của các quốc gia, dân tộc khác thì hệ thống sẽ đổ vỡ. Đặc biệt, các nước lớn như Mỹ, Nga, Trung Quốc cần phải có trách nhiệm để bảo đảm thế giới được vận hành tốt trên cơ sở tôn trọng chuẩn mực chung đó.

Lan Anh/ Tuần Việt Nam
0

Vụ Bãi Tư Chính: Công ty Nga-Nhật ‘gây phức tạp’ cho TQ


Chuyên gia về Biển Đông nói với VOA tiếng Việt rằng công ty Nga và Nhật liên quan tới vụ “đối đầu” giữa tàu hải cảnh Việt Nam và Trung Quốc ở Bãi Tư Chính đã “gây phức tạp” cho quyết sách của chính quyền Bắc Kinh.

Ông Ryan Martinson, chuyên gia về hải quân Trung Quốc của Trường Hải Chiến Hoa Kỳ, cho biết rằng tính tới ngày 23/7, các tàu hải cảnh của Trung Quốc “vẫn hoạt động gần giàn khoan dầu của Nhật ở phía tây Bãi Tư Chính”, trong khi tàu Haiyang Dizhi 8 “tiếp tục tiến hành khảo sát địa chấn tại Vùng Đặc quyền Kinh tế của Việt Nam ở phía tây quần đảo Trường Sa”.

Tin cho hay, công ty Rosneft của Nga thuê giàn khoan Hakuryu-5 của Công ty Khoan thăm dò Nhật Bản (JDC) để thực hiện hoạt động thăm dò dầu khí tại Lô 06.1 của Việt Nam ở Biển Đông trong khu vực mà Hà Nội tuyên bố là Vùng Đặc quyền Kinh tế của mình.

Ông Martinson nói rằng “công ty Nga Rosneft đã gây phức tạp cho việc ra quyết sách của Bắc Kinh” vì “Trung Quốc sẽ không muốn làm bất cứ điều gì gây tổn hại tới mối quan hệ tốt đẹp với Nga”.

Theo ông Murray Hiebert, chuyên gia về Biển Đông tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế có trụ sở ở thủ đô Washington, việc các công ty Nga và Nhật liên quan tới vụ đối đầu lần này giữa tàu chấp pháp của Việt Nam và Trung Quốc đã “đa phương hóa” vụ việc, nhưng về cơ bản, các bên “nhiều khả năng coi đây là vấn đề giữa Hà Nội và Bắc Kinh”.

Liên quan tới vụ Bãi Tư Chính, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ hôm 20/7 ra tuyên bố nhắc tới cả Trung Quốc và Việt Nam, trong đó “mạnh mẽ phản đối việc cưỡng ép và đe dọa” đồng thời nói rằng Bắc Kinh “nên chấp dứt hành vi bắt nạt và ngưng thực hiện hoạt động gây bất ổn và khiêu khích này”.

Nguồn: VOA
0

Đô đốc Mỹ kêu gọi quốc tế chống hành động của Trung Quốc ở Biển Đông

Hoa Kỳ cho rằng quốc tế cần chung sức « chống lại những hành động gây hấn» của Trung Quốc ở Biển Đông. Theo báo chí Philipines, trong một hội nghị qua hệ thống viễn thông hôm qua, 23/07/2019, tư lệnh lực lượng tuần duyên Mỹ, đô đốc Karl Schultz kêu gọi các nước đồng minh, cũng như các đối tác của Mỹ trong vùng, cùng lên án những hành động hung hãn nhằm củng cố đòi hỏi chủ quyền quá đáng của Bắc Kinh ở Biển Đông.


Quân đội Trung Quốc tập trận trên Biển Đông ngày 12/04/2018.


Nghe:


Đô đốc Schultz nhấn mạnh đến việc hải cảnh Trung Quốc đã huy động đông đảo tầu tuần tra, được tầu của hải quân nước này yểm trợ, tại những hòn đảo nhân tạo mà Bắc Kinh chiếm giữ và tại phần lớn vùng Biển Đông.

Hành động gây hấn mới nhất của tầu hải cảnh Trung Quốc là sách nhiễu hoạt động khai thác dầu khí của Việt Nam trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, theo lời tố cáo của Hà Nội. Đô đốc Schultz nhấn mạnh Tuần duyên Mỹ « hợp tác chặt chẽ với Việt Nam. Phía Việt Nam đã nhiều lần hoàn thành chức năng bảo vệ tự do hàng hải ». Theo ông Schultz, việc lực lượng tuần duyên Mỹ có mặt ở Biển Đông là nhằm mục đích tái lập và tăng cường luật pháp quốc tế ở khu vực này.

Trong khi đó, tổng thống Duterte tỏ ra bị khuất phục trước Trung Quốc ở Biển Đông. Phát biểu trước Quốc Hội Philippines hôm 22/07, ông tuyên bố rằng việc quân đội Trung Quốc hiện diện ở Biển Đông chứng tỏ rằng Bắc Kinh « đã chiếm hữu » và « kiểm soát » toàn bộ con đường hàng hải chiến lược và giầu tài nguyên. Tổng thống Duterte biện minh rằng ông không muốn thách thức và xung đột với Trung Quốc.

Tuy nhiên, thẩm phán Antonio Carpio của Tòa Án Tối Cao Philippines chỉ trích tổng thống Duterte đã nhầm khi nói rằng Trung Quốc « sở hữu » Biển Đông, vì Bắc Kinh chỉ chiếm 7 đảo nhân tạo, tương đương với 10% tổng diện tích Biển Đông.

Dường như lập trường nhún nhường của tổng thống Duterte tiếp tục được người phát ngôn Salvador Panelo bảo vệ khi bác bỏ phát biểu của thẩm phán Carpio trong buổi họp báo ngày 23/07. Ông nhấn mạnh : « Khi người ta có một căn cứ quân sự, thể hiện rằng họ có thể kiểm soát toàn bộ khu vực, điều đó có nghĩa là họ đã chiếm giữ khu vực đó» .

Theo RFI
0

Báo Nga: Việt Nam hành động rất khôn ngoan

Người Việt Nam một lần nữa thể hiện kỹ năng duy trì sự cân bằng quyền lực giữa các cường quốc.


Nghe:


Đối đầu giữa các tàu Việt Nam và Trung Quốc lại xảy ra ở Biển Đông. Chiếc tàu thăm dò Haiyang Dizhi 8 với “sự hộ tống” của các tàu hải cảnh Trung Quốc trong 12 ngày đã thực hiện cuộc khảo sát địa chất tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, ở vùng biển phía tây đảo Trường Sa.

Để phản ứng lại hành động của Haiyang Dizhi 8 (Hải Dương 8), Việt Nam đã cử 9 tàu cảnh sát biển đi theo sát tàu Trung Quốc. Ngoài ra, một tàu hải cảnh Trung Quốc đã điều động “một cách thức đe dọa” đối với các tàu thuyền Việt Nam phục vụ giàn khoan Hakuryu-5 của Nhật do công ty Rosneft của Nga thuê khoan ở lô 06.1.


Người Việt Nam một lần nữa thể hiện kỹ năng duy trì sự cân bằng quyền lực giữa các cường quốc (Ảnh: TTXVN)

Phản ứng của dư luận quốc tế

Cơ quan ngoại giao của cả Việt Nam và Trung Quốc đã đưa ra tuyên bố về vụ việc này. Bộ Ngoại giao Việt Nam yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay các hành động vi phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ở Biển Đông. Người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng tuyên bố, đây là vùng biển hoàn toàn của Việt Nam, được xác định theo đúng các quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 mà Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên.

Bộ Ngoại giao Trung Quốc kêu gọi Hà Nội tôn trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán của Trung Quốc "và không thực hiện bất kỳ hành động nào có thể làm phức tạp thêm tình hình".

Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cũng đưa ra đánh giá của họ. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ Morgan Ortagus nói rằng, việc Trung Quốc "có hành vi gây hấn lặp đi lặp lại nhằm vào các cơ sở dầu khí ngoài khơi của nước tuyên bố chủ quyền khác trên Biển Đông là sự đe dọa an ninh năng lượng trong khu vực, gây ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường năng lượng tự do và cởi mở ở Ấn Độ-Thái Bình Dương". Bà Ortagus kêu gọi Trung Quốc kiềm chế để không thực hiện những hoạt động khiêu khích và gây bất ổn.

Chính sách khôn ngoan của Ban Lãnh đạo Việt Nam

Các phương tiện truyền thông nước ngoài đều ghi nhận rằng, Việt Nam thể hiện sự kiềm chế khác thường khi đối phó với cuộc đối đầu này và nhắc nhở về những sự kiện bi thảm năm 2014 khi Trung Quốc đã đưa giàn khoan dầu vào vùng biển Việt Nam.

“Đây là một sự thay đổi trong chính sách của Việt Nam, - chuyên viên Dmitry Mosyakov lãnh đạo Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á, Australia và châu Đại dương của Viện Nghiên cứu phương Đông (thuộc Viện Hàn lâm khoa học LB Nga) nhận xét. - Việt Nam hiểu rằng, những lời phát biểu chống Trung Quốc sẽ tiếp tay cho Hoa Kỳ, mà Washington coi Hà Nội là đồng minh chính của họ chống lại Trung Quốc ở Đông Nam Á. Người Mỹ muốn cho mọi người thấy: hãy xem, Trung Quốc lại vi phạm, lại khiêu khích.

Nhưng Việt Nam không muốn xung đột với Trung Quốc - đối tác thương mại chính của họ. Hà Nội cũng hiểu rằng, cuộc xung đột như vậy sẽ tác động tiêu cực đến mối quan hệ Nga-Trung. Bây giờ lợi ích quốc gia của Việt Nam là không phá hỏng quan hệ với Trung Quốc, với Nga và không hoàn toàn chạy theo Mỹ.

Tôi nghĩ rằng Việt Nam không muốn thổi phồng một vụ bê bối quốc tế, mà chủ trương giải quyết xung đột ở cấp đảng, trong các cuộc đàm phán khép kín và nửa kín, để giải thích với Trung Quốc về những hành vi sai trái của họ, điều này sẽ hiệu quả hơn nhiều. Trong tình hình hiện nay, khi cuộc chiến thương mại với Mỹ đang gia tăng, Trung Quốc cần đến các đồng minh, cần đến sự hỗ trợ chứ không phải sự đối đầu. Bây giờ trong ban lãnh đạo Việt Nam các lực lượng thân Việt Nam chứ không phải thân Mỹ hoặc thân Trung Quốc đang giành phần thắng”.

Người Việt Nam một lần nữa thể hiện kỹ năng duy trì sự cân bằng quyền lực giữa các cường quốc, hành động rất khôn ngoan trong quá trình giải quyết xung đột chính trị phức tạp, chuyên gia Nga kết luận./.

Theo Sputnik/VOV
0

Ông Duterte nói cho tàu Trung Quốc đánh bắt ở biển Philippines để ngăn chiến tranh

Tổng thống Rodrigo Duterte cho biết mục đích của ông khi cho phép tàu Trung Quốc đánh bắt tại vùng biển của Philippines để ngăn ngừa nguy cơ xảy ra chiến tranh.


Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte phát biểu hôm 22/7. (Ảnh: Getty)


Trong bài phát biểu thông điệp quốc gia hàng năm hôm 22/7, Tổng thống Rodrigo Duterte cho biết Philippines có tuyên bố chủ quyền đối với biển Tây Philippines (cách gọi của Philippines đối với Biển Đông), tuy nhiên ông vẫn nhất trí với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình về việc cho phép các ngư dân Trung Quốc đánh bắt tại vùng biển này. Theo ông Duterte, thỏa thuận này sẽ giúp đảm bảo không xảy ra xung đột trên Biển Đông, nơi Philippines và Trung Quốc có tuyên bố chủ quyền chồng lấn.

Biển Tây Philippines là một phần của Biển Đông, nằm ở bờ biển phía tây của Philippines. Chính quyền Philippines đã đổi tên khu vực này thành biển Tây Philippines vào năm 2012 để xác định chủ quyền lãnh thổ của mình.

Trong một động thái nhắm mục tiêu vào các nhóm chủ nghĩa dân tộc tại Philippines, Tổng thống Duterte hỏi: “Các ông có muốn chiến tranh không?”.

“Nếu tôi muốn đưa lính thủy đánh bộ ra để xua đuổi ngư dân Trung Quốc, thì tôi đảm bảo rằng không một ai trong số họ (lính thủy đánh bộ) sẽ sống sót trở về”, Tổng thống Philippines nói.

“Một cuộc chiến tranh sẽ khiến đau khổ nhân lên gấp bội. Tôi không sẵn sàng hoặc chấp nhận để xảy ra thêm sự hủy diệt, thêm những người góa phụ, thêm những đứa trẻ mồ côi nếu chiến tranh xảy ra, dù chỉ trên quy mô hạn chế”, ông Duterte nhấn mạnh.

Theo Tổng thống Duterte, ông đã đề nghị ông Tập Cận Bình cho phép các ngư dân Philippines đánh bắt tại vùng đặc quyền kinh tế của Philippines (EEZ). Đổi lại, ông Duterte cho biết Philippines cũng cho phép ngư dân Trung Quốc hoạt động tại khu vực này. Hồi tháng trước, một tàu đánh cá Trung Quốc đã va chạm và đâm chìm một tàu cá Philippines trên Biển Đông.

Tổng thống Philippines cho biết ông “thậm chí không thể triển khai lực lượng cảnh sát biển để xua đuổi Trung Quốc”.

“Đó là vấn đề. Họ là bên chiếm đóng”, ông Duterte nói.

Sau bài phát biểu của tổng thống, Phó Chánh án tòa án tối cao Philippines Antonio Carpio đã lên tiếng bác bỏ tuyên bố của ông Duterte rằng, Trung Quốc đang kiểm soát biển Tây Philippines.

“Các lực lượng hải quân nước ngoài, gồm Mỹ, Anh, Pháp, Australia, Nhật Bản và Canada, vẫn tiếp tục hoạt động và tiến hành tập trận hải quân tại Biển Đông, bao gồm biển Tây Philippines. Điều đó cho thấy Trung Quốc không phải là bên sở hữu vùng biển này”, ông Carpio nói với đài ABS-CBN.

Theo SCMP
0

Trung Quốc đưa tiêm kích Su-35S ra diễn tập ở Biển Đông

Phi đội Su-35S Trung Quốc diễn tập tác chiến biển trong bối cảnh nước này bị quan chức Mỹ chỉ trích phô trương sức mạnh trên Biển Đông.


Tiêm kích Su-35S Trung Quốc diễn tập cuối năm 2018. Ảnh: PLAAF.


Tạp chí PLA Pictorial của quân đội Trung Quốc hôm nay cho biết lữ đoàn tiêm kích Su-35S đóng tại tỉnh Quảng Đông, đông nam nước này đã tham gia đợt diễn tập trên Biển Đông nhằm thử nghiệm khả năng tác chiến trên biển.

Lữ đoàn không quân tham gia diễn tập đang vận hành toàn bộ 24 tiêm kích Su-35S của Trung Quốc, thuộc biên chế Chiến khu Nam Bộ (phụ trách Biển Đông). Đợt diễn tập gồm các nội dung tấn công mục tiêu bằng biên đội ba tiêm kích, cơ động và khai hỏa hiệp đồng, cũng như hoạt động bay đêm. Tuy nhiên, quân đội Trung Quốc không cho biết chi tiết về địa điểm và thời gian diễn tập.

Thông tin được đưa ra trong bối cảnh đô đốc Philip Davidson, chỉ huy Bộ tư lệnh Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của hải quân Mỹ, tuần trước lên tiếng chỉ trích hành động khiêu khích của Trung Quốc ở Biển Đông và biển Hoa Đông như bồi đắp, quân sự hóa các đảo nhân tạo ở Biển Đông và dùng lực lượng quân sự theo dõi tàu, máy bay Mỹ cùng đối tác hoạt động trong khu vực.

Mỹ và Trung Quốc đang tranh cãi về việc tăng cường hiện diện quân sự ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Trung Quốc liên tục phản đối các chuyến tuần tra duy trì tự do hàng hải của tàu chiến Mỹ ở Biển Đông, trong khi Washington và các nước Đông Nam Á bày tỏ lo ngại về hoạt động quân sự hóa các đảo nhân tạo bị Bắc Kinh chiếm đóng trái phép.

Bộ Ngoại giao Mỹ hôm 20/7 ra thông cáo thể hiện quan ngại trước thông tin Bắc Kinh có hành vi can thiệp hoạt động khai thác dầu khí trong khu vực, bao gồm hoạt động thăm dò và khai thác lâu nay của Việt Nam. Mỹ nhấn mạnh "hành động lặp đi lặp lại" của Trung Quốc nhằm vào hoạt động phát triển dầu khí ngoài khơi "đe dọa an ninh năng lượng khu vực, đồng thời làm suy yếu thị trường năng lượng Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và cởi mở".

Theo SCMP
0

Ông Duterte: Trung Quốc muốn đánh cá ở đây, ai cản nổi ông ấy?

Hôm 22-7 Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte cho biết không có cách nào để ngăn Trung Quốc đánh bắt cá trong Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của nước ông.



"Khi ông Tập (Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình) nói "Tôi sẽ đánh bắt cá", ai có thể ngăn được ông ấy? Nếu tôi gửi lực lượng thủy quân lục chiến đuổi ngư dân Trung Quốc, tôi đảm bảo không còn ai trong số họ trở về" – ông Duterte phát biểu trước Quốc hội hôm 22-7.

Nhà lãnh đạo Philippines cho biết thêm các cuộc đàm phán ngoại giao với Trung Quốc giúp ngư dân Philippines quay trở lại khu vực đánh cá mà trước đó các lực lượng Trung Quốc yêu cầu họ rời đi.

Cách tiếp cận tránh đối đầu với Bắc Kinh liên quan tới tranh chấp lãnh hải của ông Duterte bị các nhà phê bình chỉ trích. Nhà lãnh đạo Philippines cũng không phản ứng khi Trung Quốc từ chối tuân thủ phán quyết của toà trọng tài quốc tế về yêu sách lãnh thổ của nước này ở biển Đông. Bắc Kinh không công nhận phán quyết từ năm 2016.

Trung Quốc còn vi phạm nghĩa vụ tôn trọng quyền đánh cá truyền thống của ngư dân Philippines khi chặn họ tiếp cận bãi cạn Scarborough.

Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của một quốc gia là một dải nước kéo dài 370 km, nơi quốc gia đó được độc quyền đánh bắt cá và khai thác tài nguyên như khí đốt và dầu dưới đáy biển dựa trên Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS).

Nhiều người không hài lòng với các chính sách của Duterte

Trong bải phát biểu thường niên hôm 22-7, ông Duterte yêu cầu Quốc hội khôi phục hình phạt tử hình đối với tội phạm ma túy và cướp bóc kinh tế. Nhà lãnh đạo Philippines cho biết mối đe dọa ma túy mà ông mô tả là "quái vật của xã hội" sẽ không thể bị loại bỏ nếu không bài trừ tham nhũng.

Kể từ khi nhậm chức hồi tháng 6-2016, ông Duterte, 74 tuổi, đã phát động cuộc chiến chống ma tuý đẫm máu. Ước tính hơn 6.600 người thiệt mạng trong các vụ trấn áp của cảnh sát nhưng các tổ chức nhân quyền nói rằng con số này trên thực tế cao hơn nhiều.

Hôm 22-7, khoảng 5.200 người biểu tình tập trung bên ngoài Hạ viện Philippines để yêu cẩu ông Duterte từ chức. Quân đội và cảnh sát được đặt trong tình trạng báo động trong khi chính quyền thiết lập vùng cấm bay gần khu vực này để đảm bảo an toàn.

Theo Sputniknews
0

Bãi Tư Chính: Hành động của tàu Trung Quốc theo AMTI

Vụ việc xẩy ra từ đầu tháng Bảy, nhưng mãi đến ngày 19/07/2019, bộ Ngoại Giao Việt Nam mới chính thức lên tiếng phản đối đích danh Trung Quốc về việc cho tàu vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam tại khu vực Bãi Tư Chính (Vanguard Bank) gần Trường Sa (Biển Đông), vừa khảo sát địa chất, vừa cản trở công việc thăm dò của Việt Nam.

Phản ứng được xem là mạnh bạo của Hà Nội đã được đưa ra ba hôm sau khi cơ quan Sáng Kiến Minh Bạch Hàng Hải Châu Á (AMTI), thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược và Quốc Tế (CSIS), trụ sở tại Washington, ngày 16/07, đã công bố một báo cáo nêu chi tiết các hoạt động bất chấp luật lệ quốc tế của tàu Trung Quốc tại khu vực Bãi Tư Chính.

Bản báo cáo mang tựa đề « Trung Quốc sẵn sàng gây bùng nổ trên vấn đề tài nguyên khí đốt với Việt Nam và Malaysia » đã nêu bật hành vi khiêu khích của tàu hải cảnh Trung Quốc, trong vòng 6 tuần lễ đã hai lần xuống Biển Đông quấy phá công việc khai thác dầu khí của Malaysia rồi Việt Nam. Vào cùng một thời điểm, Bắc Kinh cũng phái một chiếc tàu của họ đến vùng biển ngoài khơi bờ biển Việt Nam để khảo sát địa chấn, tìm dầu khí.

Theo AMTI, hành động của Trung Quốc có nguy cơ tạo ra va chạm giữa đội tàu hải cảnh và dân quân biển tháp tùng chiếc tàu khảo sát Trung Quốc với nhóm tàu chấp pháp của Việt Nam được phái đến nơi.

Đối với các chuyên gia Mỹ, tình hình cho thấy thái độ nước đôi của Trung Quốc : một mặt thì kiên quyết ngăn chặn các hoạt động dầu khí đơn phương mới của các nước láng giềng ở bất cứ nơi nào nằm bên trong trong đường chín đoạn mà họ dùng để yêu sách chủ quyền ở Biển Đông, đồng thời sẵn sàng tự mình tìm kiếm và khai thác dầu khí trong vùng biển tranh chấp.

Trung tâm nghiên cứu Mỹ đã căn cứ trên các dữ liệu công khai của Hệ Thống Nhận Dạng Tự Động (AIS) - ghi lại tín hiệu của các tàu thuyền trên 300 tấn hoạt động trên đại dương - để phác họa lại hoạt động của chiếc tàu hải cảnh Trung Quốc mang ký hiệu Haijing 35111, thủ phạm chính của các hành vi khiêu khích nhắm vào Malaysia và đặc biệt là Việt Nam trong những ngày qua.

Theo AMTI, sau khi hoành hành trong tháng Năm tại vùng biền gần cụm bãi cạn Luconia, ngoài khơi bờ biển bang Sarawak của Malaysia, phá rối hoạt động của giàn khoan Sapura Esperanza của nước láng giềng Đông Nam Á, và có nhiều hành vi cực kỳ khiêu khích đối với tàu tiếp tế của Malaysia, chiếc Haijing 35111 đã quay về cảng ở Hải Nam, nghỉ ngơi trong vài ngày vào cuối tháng Năm, trước khi trở xuống phía nam một lần nữa để quấy phá Việt Nam.

Kể từ ngày 16/06, chiếc tàu hải cảnh Trung Quốc đã tuần tra một vùng cách bờ biển phía đông nam Việt Nam khoảng 190 hải lý, tập trung ở khu vực có lô dầu khí 06.1, nằm ở phía tây bắc của Bãi Tư Chính ( Vanguard Bank), trên thềm lục địa Việt Nam. Lô này cách đảo Trường Sa Lớn do Việt Nam kiểm soát 172 hải lý, và nằm bên trong đường chín đoạn của Trung Quốc.

Lô dầu khí này rất quan trọng đối với dự án Nam Côn Sơn của Việt Nam, được BP và ConocoPhillips phát triển vào đầu những năm 2000, với mục tiêu vận chuyển khí đốt bằng đường ống vào đất liền. Hiện nay, khí đốt tự nhiên đến từ mỏ Lan Đô ở lô 06.1 cung cấp tới 10% tổng nhu cầu năng lượng của Việt Nam.

Tập đoàn Nga Rosneft đã trở thành nhà điều hành chính của lô này vào năm 2013 sau khi mua lại phần hùn của TNK-BP. Vào tháng 5 năm 2018, Rosneft đã ký hợp đồng thuê giàn khoan Hakuryu-5 của Công ty Khoan Dò Nhật Bản Japan Drilling Company, để khoan một giếng sản xuất mới tại một mỏ thứ hai ở lô 06.1.


Giàn khoan JDC Hakuryu-5 của tập đoàn Rosneft tại mỏ khí đốt Lan Tây ở ngoài khơi Vũng Tàu, Việt Nam. Ảnh chụp ngày 29/04/2018.

Theo ghi nhận của AMTI, bộ Ngoại Giao Trung Quốc đã lên tiếng cảnh cáo rằng « không một quốc gia, tổ chức, công ty hay cá nhân nào được phép hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí trong vùng biển thuộc thẩm quyền của Trung Quốc, mà không có sự cho phép của chính phủ Trung Quốc ».

Bắc Kinh đòi « các bên liên quan phải tôn trọng một cách nghiêm túc các quyền chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc và không làm bất cứ điều gì có thể ảnh hưởng đến quan hệ song phương và hòa bình và ổn định khu vực. »

Lời cảnh cáo này được đưa ra sau hai sự cố vào tháng 7/2017 và tháng 8/2018, khi những đe dọa của Trung Quốc đã buộc được Việt Nam phải hủy bỏ công việc khoan dò tại các lô dầu khí gần đấy vốn được giao cho tập đoàn dầu khí Tây Ban Nha Repsol.

Thế nhưng, lần này Rosneft có dấu hiệu không nao núng và vẫn tiếp tục công việc khoan dò tại Lan Đô và một mỏ khác gọi là Phong Lan Dại thuộc Lô 06.1. Vào tháng 5 năm 2019, Rosneft đã ký hợp đồng với Hakuryu-5 để khoan một giếng khác ở lô 06.1. Hình ảnh vệ tinh xác nhận rằng giàn khoan đã hoạt động vào ngày 18 tháng 5.

Hành động đe dọa của tàu hải cảnh Trung Quốc Haijing 35111

Trước việc Việt Nam và Rosneft coi thường cảnh cáo của mình, Trung Quốc đã bắt đầu chiến dịch sách nhiễu.

Theo AMTI, tín hiệu AIS cho thấy hai tàu tiếp tế của Việt Nam là Sea Meadow 29 và Crest Argus 5 đã thường xuyên đi lại giữa Vũng Tàu và Lô 06.1 kể từ tháng 5 để phục vụ giàn khoan Hakuryu-5. Sử dụng lại chiến thuật sách nhiễu như đã từng dùng với giàn khoan Sapura Esperanza của Malaysia trước đó, tàu Haijing 35111 đã có những thao tác mang tính đe dọa gần các tàu Việt Nam này trong một nỗ lực rõ ràng để uy hiếp các chiếc tàu này. Một ví dụ : Ngày ngày 2 tháng 7, khi tàu Việt Nam rời giàn khoan Hakuryu-5, thì chiếc Haijing 35111 đã chạy xen vào giữa hai chiếc tàu này với tốc độ cao, chỉ cách tàu Việt Nam khoảng 100 mét, và cách giàn khoan chưa đến nửa hải lý.

Tàu hải cảnh Trung Quốc 35111 vẫn tiếp tục hoạt động xung quanh giàn khoan Hakuryu-5, được biết là có thời hạn hợp đồng từ 60 đến 90 ngày. Điều đó cho thấy là Trung Quốc vẫn chưa hoàn thành mục tiêu mong muốn, và công việc khoan dò vẫn có dấu hiệu tiếp tục, mặc dù việc các hoạt động đó có bị cản trở hay không vẫn chưa được biết.

Cách hành xử của tàu Trung Quốc cũng bộc lộ giá trị của các đảo nhân tạo của Bắc Kinh đối với chiến thuật tấn công kiểu « vùng xám » của Trung Quốc tại Biển Đông. Sau khi tuần tra quanh lô 06.1 trong gần một tháng, chiếc Haijing 35111 đã ghé tiền đồn Trung Quốc tại Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef) từ ngày 12 đến 14 tháng 7, có lẽ là để được tiếp tế, trước khi quay trở lại vị trí gần giàn khoan Hakuryu-5.

Trung Quốc tăng sức ép

Không chỉ cho tàu hải cảnh sách nhiễu Việt Nam, vào ngày 3 tháng 7, chiếc Hải Dương Địa Chất 8 (Haiyang Dizhi 8), một tàu khảo sát thuộc sở hữu của cơ quan Khảo Sát Địa Chất Trung Quốc do chính phủ điều hành, đã bắt đầu khảo sát một khu vực rộng lớn dưới đáy biển ở phía đông bắc Lô 06.1.

Các hoạt động của con tàu khảo sát này đã được giáo sư Ryan Martinson thuộc Trường Hải Chiến Hoa Kỳ và nhiều người khác theo dõi gần như từng bước, và công bố trên các mạng xã hội.

Tàu Hải Dương Địa Chất 8 đang thực hiện một cuộc khảo sát dầu khí trên hai lô mà Trung Quốc gọi là Riji 03 và Riji 27. Vào năm 2012, Trung Quốc đã vạch ra những lô đó và bảy lô khác ngoài khơi Việt Nam rồi gọi thầu nước ngoài, nhưng đến nay không có ai tham gia.

Thời gian Trung Quốc tiến hành khảo sát hai lô dầu khí nói trên có thể là một sự trùng hợp ngẫu nhiên, nhưng có rất nhiều khả năng là công việc này đã được quyết định nhằm trừng phạt Việt Nam vì đã cho phép Rosneft khoan dò tại Lô 06.1.

Trong cả hai trường hợp, theo AMTI, hành động của Trung Quốc đều mang tính chất cực kỳ khiêu khích. vì cả hai lô này rõ ràng nằm sâu bên trong vùng 200 hải lý của Việt Nam. Cuộc khảo sát đang được Trung Quốc tiến hành ở một khu vực cách đảo Trường Sa Lớn 180 hải lý. Các lô này cũng nằm ngay ở phía bắc Nhà Giàn DK-1 mà Việt Nam kiểm soát nằm trên thềm lục địa ở phía tây nam quần đảo Trường Sa.

Trung Quốc đã cho bảo vệ tàu khảo sát của họ một cách chặt chẽ, với ít nhất là bốn tàu hải cảnh hộ tống. Tàu Haijing 37111 và hai tàu hải cảnh khác không rõ số hiệu đã đi theo chiếc Hải Dương Địa Chất 8 kể từ ngày 3 tháng Bảy. Còn có ít nhất một chiếc tàu dân quân biển được nhận diện trong đoàn tàu hộ tống : chiếc Quỳnh Tam Sa (Qiong Sansha) Yu 00114. Tín hiệu AIS của chiếc tàu này đã được truyền đi ngày 13/07 từ khu vực mà tàu Hải Dương Địa Chất 8 đang hoạt đông.

Phản ứng của Việt Nam

Việt Nam đã đối phó với hoạt động khảo sát của Trung Quốc bằng cách gửi các tàu chấp pháp của mình đến nơi theo dõi chiếc Hải Dương Địa Chất 8.

Có ít nhất hai tàu kiểm ngư KN 468 và KN 472, rời Vịnh Cam Ranh để đến nơi theo dõi tàu khảo sát kể từ ngày 4 tháng 7. Tín hiệu AIS cho thấy tàu khảo sát Trung Quốc tiếp tục hoạt động, được đoàn tàu hải cảnh hộ tống bao quanh và đẩy lùi các chiếc tàu Việt Nam cố xông vào ngăn chặn.

AMTI cảnh báo : Tình hình tại cả Lô 06.1 lẫn chung quanh khu vực Trung Quốc khảo sát dầu khí rất khó lường và nguy hiểm. Do việc hai bên đang đối đầu nhau và không ngần ngại có hành vi khiêu khích, rõ ràng là đang có nguy cơ một vụ va chạm vô tình có thể dẫn đến leo thang.

Cho dù những sự cố kể trên diễn biến ra sao, các hành động của Trung Quốc ngoài khơi cả Malaysia lẫn Việt Nam kể từ tháng Năm cho thấy là Bắc Kinh ngày càng sẵn sàng sử dụng biện pháp cưỡng ép và đe dọa dùng vũ lực để ngăn chặn các hoạt động dầu khí của các nước láng giềng, ngay cả khi bản thân Trung Quốc cũng tự mình theo đuổi hoạt động thăm dò năng lượng tại vùng biển tranh chấp.

Theo RFI
0