kimluc
Hiển thị các bài đăng có nhãn Biển Đông. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Biển Đông. Hiển thị tất cả bài đăng

Đằng sau chiến lược chiếm Biển Đông của Trung Quốc

Bắc Kinh đang từng bước tiến đến mục tiêu buộc cộng quốc tế chấp thuận các tuyên bố chủ quyền của nước này đối với Biển Đông. Cứ mỗi thập kỷ trôi qua, Bắc Kinh lại đạt được một bước tiến mới trong nghị trình của mình.


Bắc Kinh đang từng bước tiến đến mục tiêu buộc cộng quốc tế chấp thuận các tuyên bố chủ quyền của nước này đối với Biển Đông. Cứ mỗi thập kỷ trôi qua, Bắc Kinh lại đạt được một bước tiến mới trong nghị trình của mình. Trong những năm 1970, Trung Quốc tập trung phần lớn nỗ lực vào việc đưa ra các tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa, nằm ở phía Bắc Biển Đông và gần với Trung Quốc.

Việc Trung Quốc sử dụng vũ lực để chiếm đóng Đá Gạc Ma của Việt Nam vào năm 1988 là động thái gây bất ngờ. Trong khi đó, điểm nổi bật của những năm 1990 là chiến lược “xâm chiếm từ từ”, mà kết quả đáng chú ý là các cấu trúc được xây dựng tạm thời trên Đá Vành Khăn thuộc quần đảo Trường Sa ở phía Nam Biển Đông. Năm 1999, Bắc Kinh bắt đầu tìm cách áp đặt lệnh cấm đánh bắt cá đối với các nước khác ở vùng biển này trong các tháng mùa Hè, thể hiện quyền kiểm soát hành chính của Trung Quốc đối với khu vực này.

Xu hướng này lên đến đỉnh điểm trong kỷ nguyên Tập Cận Bình, khi Trung Quốc có những hành vi ứng xử trơ trẽn theo kiểu nước lớn. Việc Trung Quốc quấy rối các tàu nước ngoài đang đánh bắt cá hay khai thác tài nguyên, và thậm chí còn lao thẳng vào những tàu này, đã trở nên phổ biến ở khu vực phía Nam “đường 9 đoạn” do chính Trung Quốc vạch ra.

Tất nhiên, Tập Cận Bình đã giám sát việc xây dựng ba căn cứ khá lớn trên các bãi đá nhân tạo, tạo điều kiện cho sự hiện diện lâu dài của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) ở khu vực phía Nam Biển Đông. Các động thái phản đối của cộng đồng quốc tế – bao gồm khiếu nại của các nước Đông Nam Á, phán quyết của Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) đối với Trung Quốc và một loạt hoạt động tự do hàng hải của Mỹ – cũng không thể ngăn chặn các hành động nhằm củng cố các tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh.

Việc đạt được mục tiêu ở Biển Đông sẽ mang lại cho Bắc Kinh những lợi ích to lớn về kinh tế, chính trị và chiến lược. Họ sẽ có quyền ưu tiên đối với các nguồn tài nguyên trên biển như cá và các nguồn tài nguyên dưới đáy biển như dầu lửa, khí đốt và khoáng sản. Đảng Cộng sản Trung Quốc có thể củng cố tính hợp pháp của mình bằng cách rêu rao với công chúng trong nước rằng Trung Quốc đã đánh bại các nỗ lực nước ngoài nhằm xâm chiếm lãnh thổ “của họ”. Và Trung Quốc sẽ cải thiện đáng kể vị thế chiến lược của mình trong khu vực.

Yêu sách của Trung Quốc mơ hồ một cách có chủ ý. Bắc Kinh từ chối lập quan điểm của mình theo các điều khoản của Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS), trong đó Trung Quốc là một bên ký kết. Thay vào đó, họ vạch ra “đường 9 đoạn” và thường xuyên lặp lại tuyên bố về cái mà họ cho là chủ quyền không thể tranh cãi đối với tất cả các hòn đảo ở Biển Đông và các vùng biển lân cận.

Xét tới những hành vi ứng xử thực tế của các quan chức Chính phủ Trung Quốc và các đội tàu đánh cá được huy động tham gia lực lượng quân sự của nước này ở Biển Đông, có thể thấy Bắc Kinh dường như đang cân nhắc coi phần lớn vùng biển này là lãnh hải của họ.

Theo UNCLOS, các tàu chiến nước ngoài được phép đi qua mà không gây hại tới các vùng lãnh hải của các nước, nhưng Trung Quốc thường xuyên lên án việc các tàu chiến Mỹ đi qua khu vực Biển Đông. Các hành động của Trung Quốc cho thấy Bắc Kinh tin rằng nước này có quyền đưa ra các quy định ở Biển Đông, sở hữu các nguồn tài nguyên ở biển và ngăn chặn máy bay và tàu chiến nước ngoài.

Thành công của Trung Quốc bắt nguồn chủ yếu từ ba đặc điểm trong chính sách Biển Đông của nước này. Thứ nhất là ảnh hưởng đòn bẩy. Để đạt được các mục tiêu chính trị, Bắc Kinh đã lợi dụng ưu thế là một nước lớn mạnh hơn so với các đối thủ. Trung Quốc đã khai thác sức mạnh công nghiệp, đặc biệt là năng lực đóng tàu, để triển khai đến Biển Đông một lực lượng gồm các tàu chiến, tàu hải cảnh và máy bay quân sự đông đảo hơn bất kỳ nước nào có tuyên bố chủ quyền ở đây. Hơn nữa, Bắc Kinh thường xuyên kêu gọi các đội tàu đánh cá dân sự của mình, vốn hùng hậu nhất ở Biển Đông, thực hiện sứ mệnh hỗ trợ các mục tiêu chiến lược quốc gia.

Quan điểm của Bắc Kinh về các cuộc đàm phán giải quyết tranh chấp trên Biển Đông dựa trên nguyên tắc song phương, giữa Trung Quốc với một nước khác có yêu sách, và sức mạnh vượt trội của Trung Quốc. Trung Quốc lớn mạnh hơn nhiều so với bất kỳ đối thủ nào có yêu sách và điều này tạo lợi thế cho họ trong các cuộc đàm phán. Bắc Kinh phản đối mạnh mẽ bất kỳ gợi ý nào về các cuộc đàm phán đa phương, vốn cho phép ít nhất hai nước có yêu sách phối hợp với nhau để đối trọng với Trung Quốc. Sự phụ thuộc của các nước trong khu vực vào thương mại và đầu tư của Trung Quốc đã đặt Bắc Kinh vào vị thế có thể yêu cầu các bên làm theo ý mình.

Ảnh hưởng của Trung Quốc thể hiện rõ trong việc Campuchia ngăn chặn những chỉ trích về các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông. Trung Quốc cũng đã gây sức ép kinh tế đối với Philippines trước khi Tổng thống Duterte thể hiện ý định sẵn sàng đánh đổi cơ hội bảo vệ các tuyên bố chủ quyền của nước mình để nhận thêm viện trợ kinh tế từ Bắc Kinh. Mặc dù là nước mạnh nhất trong số các quốc gia bị coi là đối thủ của Trung Quốc vì cũng có tuyên bố chủ quyền đối với Biển Đông, nhưng Việt Nam lại phụ thuộc vào kinh tế Trung Quốc và do đó rơi vào những xung đột về lợi ích.

Đặc điểm thứ hai đóng góp vào thành công của Trung Quốc là những cam kết giả tạo. Mặc dù tham gia các hoạt động mang tính côn đồ ở Biển Đông, nhưng Chính phủ Trung Quốc vẫn luôn cam kết tuân thủ nguyên tắc hòa bình, hài hòa và đạo đức. Bắc Kinh luôn tuyên bố rằng Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là một quốc gia yêu chuộng hòa bình và không xâm lược hay bắt nạt các nước khác, ngay cả khi là một siêu cường. Để chứng minh điều này, Bắc Kinh đã thể hiện sự ủng hộ đối với việc giảm bớt căng thẳng, ký kết Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) năm 2002 và tham gia các cuộc đàm phán về Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).

Những hành động này nhằm che đậy ý định thực sự của Trung Quốc và dẫn tới quan điểm lạc quan thiếu căn cứ rằng các ví dụ về hành vi ứng xử hung hăng của Trung Quốc là những hiện tượng bất thường, bị giới hạn trong một số trường hợp cụ thể hay do một bên nào đó thực hiện mà chưa được phép của Bắc Kinh. Sự nhìn nhận vấn đề theo hướng này sẽ làm gia tăng bất đồng giữa các nước trong khu vực về cách thức đối phó với Trung Quốc, tạo cơ hội cho Bắc Kinh gây chia rẽ và chinh phục các nước.

Tuy nhiên, cách giải thích thuyết phục hơn gồm hai ý. Một là, Bắc Kinh có lợi ích rõ ràng trong việc che giấu các hành động của mình dưới vỏ bọc nhân từ nhằm hạn chế sự hợp tác an ninh giữa các nước đang cảm thấy bị đe dọa và muốn chống lại Trung Quốc. Hai là, do tư tưởng văn hóa-chính trị truyền thống và quyết tâm cai trị, Trung Quốc cảm thấy sức ép buộc họ phải duy trì vai trò lãnh đạo hợp pháp của mình ở trong nước.

Điều này dẫn tới việc Chính phủ Trung Quốc khăng khăng cho rằng thế giới không có gì phải lo ngại về chính sách đối ngoại của họ, ngay cả khi sự bất an của Đảng Cộng sản Trung Quốc ở trong nước đã thúc đẩy Bắc Kinh thể hiện các quan điểm dân tộc chủ nghĩa khiến căng thẳng với các nước khác gia tăng.

Do vậy, những sự bảo đảm mà Bắc Kinh đưa ra xét cho cùng đều không có cơ sở. DOC bao gồm các cam kết không đưa người đến sinh sống trên các cấu trúc địa hình hiện không có người ở và không tham gia các hoạt động gây căng thẳng hay làm leo thang xung đột, những điều mà Trung Quốc rõ ràng đã phớt lờ khi đổ cát lên các rạn san hô để xây dựng các căn cứ quân sự ở một khu vực rộng tới hơn 1.200 ha. Trong khi đó, các cuộc đàm phán về COC đã kéo dài 24 năm và Bắc Kinh vẫn phản đối những từ ngữ mà có thể vô hiệu hóa các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc, đồng thời thúc đẩy một điều khoản hạn chế các hoạt động quân sự của Mỹ ở Biển Đông.

Các tàu thuyền của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng các tiêu chuẩn được nhiều nước chấp nhận về các hành vi chuyên nghiệp và an toàn theo quy định của Công ước quốc tế năm 1972 về việc ngăn chặn các vụ va chạm trên biển và Bộ quy tắc tránh va chạm ngoài ý muốn trên biển (CUES) năm 2014. Ví dụ điển hình là việc các quan chức Trung Quốc bác bỏ mọi hành vi sai trái của nước này ở Biển Đông, ngay cả khi đối mặt với những thực tế phản ánh điều ngược lại như việc tàu Trung Quốc cắt đứt dây cáp của các tàu nước khác năm 2011.

Đặc điểm thứ ba là điều chỉnhcác hành vi hung hăng. Trung Quốc kiên trì thúc đẩy các lợi ích của nước này ở Biển Đông, gây phương hại đến lợi ích của các nước khác. Tuy nhiên, Bắc Kinh đã thận trọng lựa chọn địa điểm, thời điểm và phương thức gây áp lực để hạn chế tối đa các phản ứng trái ngược. Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra nhận định chính xác rằng Mỹ sẽ không gây chiến với Trung Quốc để ngăn chặn việc nước này xây dựng các căn cứ quân sự trên các đảo đá chiếm đóng.

Việt Nam là nước có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông bị thiệt hại nhiều nhất do các cuộc tấn công bạo lực của Trung Quốc. Việt Nam không có thỏa thuận hợp tác an ninh với Mỹ. Bắc Kinh đã lựa chọn tháng 4/2020, thời điểm đỉnh dịch, để đưa ra tuyên bố về cái mà các phương tiện truyền thông của nước này gọi là “động thái hành chính quan trọng” – thành lập hai quận mới ở Biển Đông, trong đó có một quận quản lý cả khu vực đảo Trung Sa, vốn trên thực tế là một đảo san hô chìm cách mặt biển từ 9-18 m.

Chính phủ Trung Quốc tổ chức lực lượng thành ba cấp độ để thực thi chính sách trên biển: tàu Hải quân PLA, tàu hải cảnh và các tàu đánh cá dân sự. Nhìn chung, Trung Quốc sẽ chỉ sử dụng lực lượng ở cấp độ thấp nhất để hoàn thành nhiệm vụ nhằm giảm dần ấn tượng của các nước về họ như một nước chuyên bắt nạt. Ví dụ, trong những tháng gần đây, một loạt tàu đánh cá của Trung Quốc, tắt hết các hệ thống tiếp sóng vô tuyến và không tham gia đánh bắt cá, đã bao vây đảo Thị Tứ do Philippines chiếm đóng trong một nỗ lực rõ ràng nhằm đe dọa Manila và buộc họ phải rút lui.

Chiến thuật đâm đụng phổ biến hiện nay của Trung Quốc ít có tính khiêu khích hơn so với việc nổ súng và thường tỏ ra hiệu quả trong việc giành chiến thắng trên biển. Thậm chí, các tàu Trung Quốc đã nhiều lần đe dọa đụng độ để xua đuổi các tàu chiến của Hải quân Mỹ. Việc Trung Quốc sử dụng tia laser để quấy nhiễu máy bay của các nước khác là một biểu hiện mới của hành vi ứng xử của Bắc Kinh. Các tia laser gây nguy hiểm cho các máy bay chứ không trực tiếp gây chết người.

Chính sách hiện nay của Trung Quốc là tiến hành và bác bỏ. Sau khi Hải quân Mỹ cáo buộc một tàu khu trục của Trung Quốc đã chiếu tia laser vào máy bay P-8 của Mỹ hồi tháng 2/2020 khi máy bay này đang bay qua không phận quốc tế trên biển Philippines, Bộ Quốc phòng Trung Quốc bác bỏ và cho rằng đó là một cáo buộc vô căn cứ. Vài ngày sau đó, tờ “Thời báo Hoàn cầu” trực thuộc Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đăng tải một bài viết, trong đó các chuyên gia quân sự Trung Quốc ủng hộ việc sử dụng tia laser để xua đuổi tàu chiến Mỹ khỏi khu vực Biển Đông.

Những đặc điểm này cũng được thể hiện rõ trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc, cụ thể là việc cam kết ủng hộ hòa bình và công lý, lên tiếng bác bỏ các hành vi ứng xử mang tính côn đồ hay các chính sách làm tổn hại các nước khác, ủng hộ chiến thuật bầy đàn và tấn công bằng tia laser ở biển Hoa Đông, gây sức ép kinh tế và đe dọa trừng phạt các nước khác vì đã thách thức lập trường của Trung Quốc về các vấn đề như Đài Loan, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và đặc quyền của Trung Quốc như một nước lớn, hay bắt giữ Giám đốc tài chính của tập đoàn Hoa Vi Mạnh Vãn Châu.

Việc thay đổi quỹ đạo trên Biển Đông đòi hỏi các nước trong khu vực sẽ phải nỗ lực hơn nữa để xác định liệu nguy cơ dài hạn của việc Trung Quốc sở hữu tuyến đường biển quan trọng này có vượt xa những rủi ro về kinh tế lẫn quân sự hay không và có lập trường mạnh mẽ hơn trong việc chống lại sự xâm chiếm của Trung Quốc.

Nếu được lựa chọn, Mỹ có thể đóng một vai trò quan trọng mang tính xây dựng bằng cách: một là đi đầu trong việc phản đối các hành động của Trung Quốc, vốn đi ngược lại UNCLOS và phán quyết của PCA năm 2016; và hai là nỗ lực xây dựng một giải pháp toàn diện đối với vấn đề tranh chấp ở Biển Đông mà ít nhất sẽ thách thức và cô lập Trung Quốc, thay vì cho phép nước này chiếm ưu thế bằng cách lợi dụng sự lơ đễnh của cộng đồng quốc tế. Nếu không lựa chọn Mỹ, khu vực này hẳn là đang đánh cược rằng Trung Quốc sẽ không sử dụng quyền kiểm soát đối với Biển Đông để thúc đẩy các lợi ích của mình và trừng phạt các đối thủ.

Bài viết của tác giả Denny Roy, nghiên cứu viên cao cấp, giám sát viên tại Chương trình học bổng Posco, Chương trình Nghiên cứu tại Trung tâm Đông-Tây. Bài viết được đăng trên The National Interest.

Theo NGHIÊN CỨU BIỂN ĐÔNG
0

'Tứ giác kim cương' củng cố liên thủ đối phó Trung Quốc

Việc Ấn Độ và Úc vừa ký kết thỏa thuận hợp tác quân sự được xem là bước tiến mới trong sự phối hợp của tứ giác an ninh, gồm Mỹ - Nhật Bản - Ấn Độ - Úc, để đối phó với Trung Quốc.


Các tàu chiến Ấn Độ và Úc trong cuộc tập trận AUSINDEX năm 2019

Tuần qua, Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi và người đồng cấp Úc Scott Morrison đã có cuộc họp thượng đỉnh trực tuyến. Qua đó, hai bên thông qua nhiều hiệp định quân sự quan trọng như Thỏa thuận hỗ trợ hậu cần (LEMOA), Thỏa thuận triển khai khoa học và công nghệ quốc phòng (DST)… Cả hai đều khẳng định việc tăng cường thỏa thuận là nhằm hướng đến cùng cam kết hợp tác vì an ninh, ổn định của khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (Indo-Pacific).

Thời gian qua, các nước trong tứ giác an ninh chia sẻ chung tầm nhìn về Indo-Pacific với nội dung cốt lõi là nhằm đảm bảo an ninh chung trong bối cảnh Trung Quốc ngày càng có nhiều hành động gây quan ngại trong khu vực.

Bổ sung thỏa thuận quân sự

Trả lời Thanh Niên ngày 7.6, TS Satoru Nagao (Viện Nghiên cứu Hudson, Mỹ) nhận định: Việc Ấn Độ và Úc tổ chức hội nghị thượng đỉnh trực tuyến và thông qua Thỏa thuận hỗ trợ hậu cần (LEMOA) có ý nghĩa quan trọng. Bởi thỏa thuận này là bằng chứng cho thấy bước tiến triển của tứ giác an ninh (hay còn gọi là “tứ giác kim cương”).

Gần đây, việc hợp tác của tứ giác an ninh được cho là tiến triển nhưng làm sao để đo lường sự tiến triển đó thì vẫn đang gây tranh cãi, nhất là khi đến giờ vẫn chưa có một thỏa thuận liên minh nào được ký kết. Mà khi không có hiệp ước liên minh nào thì làm thế nào đo lường tiến trình hợp tác?

Để đo lường tiến trình hợp tác trong trường hợp này thì có thể xét đến các thỏa thuận để tạo điều kiện sẵn sàng chiến đấu cùng nhau. Các thỏa thuận như thế hướng đến việc chia sẻ thông tin, cho phép truy cập nguồn dữ liệu của nhau, chia sẻ việc cung cấp nguồn lực.

Trong đó, để chia sẻ thông tin, Hiệp định chia sẻ thông tin tình báo quân sự (G-SOMIA) đã có các ký kết song phương gồm: Mỹ - Nhật Bản, Mỹ - Ấn Độ, Mỹ - Úc, Nhật Bản - Ấn Độ. Nhật Bản và Úc không có hiệp định song phương tương tự G-SOMIA, nhưng liên minh tình báo Ngũ nhãn (gồm Mỹ, Anh, Úc, Canada, New Zealand) lại có thỏa thuận hợp tác tình báo với Nhật Bản. Dựa vào khung hợp tác này, Tokyo và Canberra có thể chia sẻ thông tin tình báo.

Để cùng chia sẻ nguồn lực hậu cần và truy cập vào cơ sở dữ liệu của nhau, Hiệp định Thu nhận và dịch vụ tương hỗ (ACSA) cũng đã có các ký kết song phương gồm: Mỹ - Nhật, Mỹ - Úc, Nhật - Úc. Về mặt lý thuyết, Mỹ và Ấn Độ chưa phải là đồng minh và hai nước cũng chưa ký kết ACSA. Ấn Độ cũng chưa ký kết ACSA với Nhật Bản. Giờ đây, Ấn Độ vừa ký kết LEMOA với Úc. Mục đích là giống nhau nên LEMOA có thể xem là một ACSA phiên bản Ấn Độ để New Delhi ký kết với các bên khác như Tokyo hay Washington.


Sơ lược về các thỏa thuận hợp tác tình báo và hậu cần của “tứ giác kim cương”

Khi đó, Mỹ - Nhật - Úc - Ấn sẽ có đủ hệ thống thỏa thuận chia sẻ thông tin tình báo, hậu cần như một mạng lưới đồng minh ở Indo-Pacific nhằm đối phó những mối nguy từ Trung Quốc như định hướng của “tứ giác kim cương”.

Thường xuyên tập trận chung

Thực tế thời gian qua, các nước trong “tứ giác kim cương” liên tục có những hoạt động chung ở Indo-Pacific nói chung, Biển Đông nói riêng.

Cuối tháng 5, Mỹ điều động 2 oanh tạc cơ B-1 Lancer tham gia tập trận cùng 16 máy bay tiêm kích, bao gồm 2 loại F-15 và F-2 của Nhật Bản, ở khu vực vùng biển xung quanh quần đảo Okinawa. Tháng 6.2019, tàu chiến JS Izumo của Nhật Bản đã có cuộc tập trận chung với hàng không mẫu hạm Mỹ USS Ronald Reagan ở khu vực Biển Đông.

Cũng trên Biển Đông, tháng 4.2020, tàu hộ tống HMAS Parramatta thuộc Úc đã tập trận cùng tàu tấn công đổ bộ USS America, tàu tuần dương USS Bunker Hill và tàu khu trục USS Barry của Mỹ. Tháng 9.2019, tàu chiến của Nhật Bản, Ấn Độ và Mỹ tổ chức tập trận chung thường niên Malabar tại vùng biển ngoài khơi thành phố Sasebo (Nhật Bản).

Về tập trận song phương trong nhóm “tứ giác kim cương”, năm 2019, Úc đã điều động hạm đội tàu chiến lớn nhất nước này kể từ sau Thế chiến 2 tham gia cuộc tập trận chung với Ấn Độ mang tên AUSINDEX.

Không chỉ vậy, một số thành viên trong nhóm “tứ giác kim cương” còn cùng nhau tổ chức tập trận đa phương với các nước khác trong khu vực. Tháng 5.2019, Hạm đội 7 của Mỹ thông báo tàu chiến nước này cùng chiến hạm của Hàn Quốc, Nhật Bản và Úc có cuộc tập trận chung đầu tiên ở gần đảo Guam. Cũng trong tháng 5.2019, hải quân 4 nước gồm Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ và Philippines điều 6 chiến hạm tập trận chung trên Biển Đông.

Các cuộc tập trận chung có sự tham gia của các nước thuộc “bộ tứ kim cương” trên Biển Đông luôn được giới chuyên gia đánh giá như động thái thách thức tuyên bố chủ quyền phi pháp của Trung Quốc tại đây.

Ấn - Trung nhất trí giải quyết tranh chấp biên giới

Ấn Độ và Trung Quốc đang hành động nhằm giải quyết tình trạng căng thẳng và ẩu đả kéo dài cả tháng qua dọc theo đường kiểm soát thực tế (LAC), cụ thể là tại 4 điểm ở phía đông Ladakh, theo báo Hindustan Times hôm qua 7.6 dẫn nguồn thạo tin.

Trước đó, trung tướng Harinder Singh, tư lệnh quân đoàn 14 đóng tại Leh thuộc khu vực Ladakh, dẫn đầu phái đoàn Ấn Độ hội đàm với đoàn của thiếu tướng Liễu Lâm, chỉ huy quân khu Nam Tân Cương, tại Moldo-Chushul ở bên phần Trung Quốc ngày 6.6. Cuộc đối thoại kéo dài 7 giờ đánh dấu lần đầu tiên diễn ra đối thoại ở cấp tướng kể từ khi vụ chạm trán giữa binh sĩ tuần tra hai nước xảy ra gần hồ Pangong trên Himalaya ngày 5.5.

Hai bên đồng ý giải quyết tranh chấp một cách hòa bình và dựa trên các thỏa thuận song phương đã ký kết, đồng thời nhất trí rằng quân đội Ấn - Trung không thể để tình hình leo thang dọc theo LAC như vừa qua. Bộ Ngoại giao Ấn Độ hôm qua cũng ra thông cáo với cùng nội dung.

H.G/ Báo Thanh Niên
0

Chính ủy QK7 nói về chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa

Một Video xuất hiện trên mạng xã hội quay lại cảnh Trung tướng, Chính ủy Quân khu 7 Phạm Văn Dỹ phát biểu trước hàng chục quan khách và ông Dỹ khẳng định Hoàng Sa - Trường Sa là của Việt Nam.



Nguồn: https://www.youtube.com/watch?v=NVOoDc07oao
0

Nghi vấn tàu ngầm TQ bị tàu đánh cá Việt ép phải nổi lên


Hôm 16/10 trên mạng xã hội xuất hiện một bức ảnh chụp một tàu ngầm 094 nổi lên bên cạnh một tàu đánh cá VN.
0

Biển Đông: Chứng lý không thể chối cãi của Việt Nam

Nếu kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế về những hành vi ngang ngược trên Biển Đông thì khả năng thắng của Việt Nam còn cao hơn Philippines năm 2016.


Vị trí của bãi Tư Chính/Nam Côn Sơn so với các đảo trên Biển Đông
Nguồn: Phan Văn Song/Đồ họa: Du Sơn
0

Báo Mỹ: Trung Quốc múa gậy ở Biển Đông

Hôm 28/7 báo The Hill của Mỹ có đăng bài “Trung Quốc múa gậy ở Biển Đông” của James Holmes – một chuyên gia về hàng hải thuộc trường Naval War College.



Trước hết, tác giả James Holmes cho rằng cuộc tranh chấp giữa Iran và Vương quốc Anh, mỗi nước đã giam giữ một tàu chở dầu của nhau đang khiến thế giới chú ý và quên mất chuyện Trung Quốc tạo sóng ở Biển Đông. Tác giả tự hỏi tại sao hai chuyện nóng trên biển lại xảy ra trong thời gian quá gần nhau như thế. Phải chăng là có kẻ lợi dụng điểm nóng ở chỗ khác để hành động của mình bớt bị chú ý.

Hành động của Trung Quốc ở gần bãi Tư Chính được tác giả cho rằng “Trung Quốc đang cố gắng củng cố quyền kiểm soát 80 đến 90% Biển Đông, bao gồm cả vùng biển được phân bổ cho các nước láng giềng Đông Nam Á theo “hiến pháp đại dương” chính là Công ước về Luật Biển (UNCLOS).

Đây là một chiến lược hành động dài hơi của Trung Quốc. Trở lại năm 2009, Bắc Kinh đã đệ trình bản đồ lên Liên Hợp Quốc khẳng định “chủ quyền không thể chối cãi của họ” trên vùng biển trong “cái đường chín đoạn của họ” (ngoặc kép là cách mỉa mai của tác giả), bao quanh 80 đến 90% Biển Đông. Chủ quyền có nghĩa là một chính phủ được thực thi luật pháp trong không gian địa lý được phân định theo biên giới. Nói cách khác, đảng Cộng sản Trung Quốc cầm quyền quyết tuyên bố quyền ra lệnh cho tàu và máy bay Trung Quốc và nước ngoài có thể và không thể làm gì trong đường chín đoạn - giống như luật pháp Trung Quốc chi phối những gì công dân và người nước ngoài được làm trong biên giới Trung Quốc trên đất liền.

Bài báo cũng khẳng định rất mạnh mẽ Trung Quốc đã sai khi xâm phạm chủ quyền nước khác khi dẫn chi tiết: Trong tháng này, tàu thăm dò dầu khí Trung Quốc Haiyang Dizhi 8 đã đậu gần bãi Tư Chính. Giáo sư danh dự Carl Thayer, chuyên gia Việt Nam từ Đại học New South Wales, giải thích, vùng nước xung quanh bãi Tư Chính nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam (EEZ), một vành đai 200 hải lý ngoài khơi (tính từ đường cơ sở) được phân chia cho các quốc gia ven biển theo quy định của UNCLOS.

Từ đó, James Holmes khẳng định: "Đặc quyền là đặc quyền, Hà Nội, chứ không phải Bắc Kinh, mới duy nhất được hưởng quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên từ cả dưới nước và đáy biển trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Đáy biển trữ lượng khoảng 45 triệu thùng dầu và 172 tỷ feet khối khí đốt có thể khai thác". (lưu ý tác giả khẳng định rõ một lần nữa bãi Tư Chính là vùng biển của Việt Nam).

Hiện tại bãi Tư Chính, Việt Nam đang rất kiềm chế và làm đúng phần việc của mình. Bài báo trên The Hill viết: Bãi Tư Chính không có các tàu chiến mang tên lửa hù dọa nhau và cũng không có máy bay chiến đấu bay lượn trên bầu trời dọa dội bom. Thay vào đó, như báo cáo từ tờ Straits Times có trụ sở tại Singapore, lực lượng bảo vệ bờ biển 2 bên đã đối mặt quanh Haiyang Dizhi 8. Tàu cảnh sát biển hiện diện ở đây chứ không phải là tàu chiến. Cảnh sát được vũ trang nhẹ hoặc không vũ trang thường hoạt động trong khu vực nằm dưới quyền tài phán của nước mình. Họ thi hành luật pháp quốc gia, giải cứu người đi biển khỏi nguy hiểm và thực hiện các công việc hành chính. Ít khi họ tham gia chiến đấu.

James Holmes viết “Bắc Kinh và Hà Nội đang cố gắng gửi thông điệp rằng họ có quyền đưa ra các quy tắc điều chỉnh với những gì xảy ra ở vùng biển ngoài khơi Việt Nam (lưu ý tác giả lần thứ 3 trong bài khẳng định bãi Tư Chính là vùng biển của Việt Nam).

ại sao không điều hải quân tàu xám - cây gậy lớn - để phát đi thông điệp đó? Vâng, hải quân chiến đấu cho những thứ đang tranh chấp; Tại sao phải thừa nhận có tranh chấp? Cảnh sát biển quản lý vùng biển thuộc về mình. Bằng cách triển khai các tàu vệ bờ biển vỏ trắng - cây gậy nhỏ - cả hai đã tuyên bố, và trên thực tế hiện trường, rằng họ đang thực thi luật pháp ở vùng biển nơi họ có quyền làm như vậy”.

Như vậy, theo cách viết của James Holmes trong trường hợp này thì cảnh sát biển và các lực lượng chấp pháp của chúng ta đã cư xử đúng với nhiệm vụ và bổn phận của mình trong vùng đặc quyền kinh tế của nước nhà. Còn Trung Quốc thì ráng đóng kịch hành động tại một nơi không thuộc về họ.

Trong tâm thế của kẻ làm việc bất minh, Trung Quốc vẫn đặt tay lên cây gậy lớn tức là phòng trường hợp dùng sức mạnh quân sự. Việc này được James Holmes mô tả là Trung Quốc thủ sẵn lực lượng máy bay, tên lửa trên bờ và hải quân phía sau sẵn sàng yểm trợ. Trên thực tế là ngay trước đó, Trung Quốc đã tập trận rầm rộ và phóng thử tên lửa trên Biển Đông gây lo ngại cho các nước láng giềng.

Với kiểu tay múa gậy nhỏ (cảnh sát biển), tay dứ gậy lớn (hải quân), James Holmes đánh giá Trung Quốc có tùy chọn leo thang từ đấu gậy nhỏ sang gậy lớn nếu thuận lợi. Còn Việt Nam có ít lựa chọn như vậy. Theo James Holmes, nếu Cố Tổng thống Mỹ Theodore Roosevelt có sống lại dù không bao giờ chấp nhận mục tiêu của Trung Quốc ở Biển Đông, nhưng ông cũng phải ngả mũ trước chiến thuật múa gậy nhỏ, dứ gậy to của Trung Quốc. Tổng thống Theodore Roosevelt là người rất thích câu châm ngôn “Nói năng nhẹ nhàng và cầm cây gậy to sẽ giúp bạn đi xa” và từ cây gậy đã trở thành thuật ngữ chính sách ngoại giao của Mỹ sau này.

Để đối phó với Trung Quốc mưu mô thâm hiểm như vậy, thì tác giả trong phần kết bài cho rằng Việt Nam cần phải tìm kiếm cho mình những đồng minh dám liều chơi tới cùng (nguyên văn là: allies bearing brickbats).

Vụ Bãi Tư Chính

Bãi Tư Chính nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và do đó hoàn toàn không nằm trong vùng biển tranh chấp song Trung Quốc lại cho rằng bãi này nằm trong cái gọi là “Đường 9 đoạn” - một yêu sách phi lý đã bị Tòa Trọng tài Quốc tế tuyên là vô hiệu nhưng Bắc Kinh hoàn toàn phớt lờ. Gần đây, nhóm tàu khảo sát Hải Dương Địa chất 8 (Haiyang Dizhi 8) của Trung Quốc đã có các hoạt động vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông này.

Ý kiến của Bộ Ngoại giao Việt Nam

Về phía Việt Nam, người phát ngôn Lê Thị Thu Hằng hôm 25/7 khẳng định:

"Về vụ việc nghiêm trọng này, chúng tôi đã đề cập nhiều lần trong các phát biểu trước đây. Như đã nhiều lần khẳng định, Việt Nam kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán đã được xác lập tại Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982) bằng các biện pháp hoà bình, trên cơ sở của luật pháp quốc tế".

Theo người phát ngôn Lê Thị Thu Hằng, với mục tiêu trên, Việt Nam đã có nhiều hình thức giao thiệp ngoại giao phù hợp, trao công hàm phản đối cho phía Trung Quốc, yêu cầu rút ngay khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Các lực lượng chức năng của Việt Nam triển khai các biện pháp phù hợp, đúng pháp luật.

"Duy trì hoà bình, ổn định và tự do hàng hải, hàng không, đề cao thượng tôn pháp luật, tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của các quốc gia như được xác lập tại UNCLOS 1982 là lợi ích và trách nhiệm chung của các nước và cộng đồng quốc tế. Việt Nam hoan nghênh và sẵn sàng cùng các nước và cộng đồng quốc tế nỗ lực đóng góp vào mục tiêu nói trên, vì hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển của tất cả các quốc gia trong khu vực và trên thế giới", bà Lê Thị Thu Hằng nhấn mạnh.

Nguồn: The Hill, Sputniknews

Link: https://thehill.com/opinion/national-security/454402-china-swings-a-small-stick-in-the-south-china-sea

0

Biển Đông: Vì sao Việt Nam không kiện TQ ra toàn án quốc tế?


Vì sao Việt Nam không kiện Trung Quốc trong vấn đề tranh chấp biển Đông? Phân tích của nhà báo người Mỹ gốc Việt Đỗ Dzũng, cộng tác viên báo Người Việt, STBN.

Nguồn: Nua Vong Trai Dat TV
0

Hành động của Trung Quốc 'đẩy Việt Nam vào vòng tay của Mỹ'


Tư liệu: Bộ ngoại giao Việt Nam tuyên bố về biển Đông trên Twitter (@PressDept_MoFA)

Trung Quốc và Việt Nam lẽ ra là những đối tác tự nhiên của nhau bởi vì hai nước chia chung ý thức hệ cộng sản, nhưng theo một chuyên gia của Viện nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore (ISEAS Yusof Ishak) thì những hành động của Bắc Kinh trên Biển Đông đang đẩy Việt Nam, một nước cựu thù trở thành một đồng minh của Mỹ.

Đó là ý kiến của Tiến sĩ Lê Hồng Hiệp thuộc Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore (ISEAS Yusof Ishak) trong một bài bình luận đăng trên báo South China Morning Post ngày 25/7/2019.

Bài báo lược qua những diễn biến mới đây trên Biển Đông.

Đối đầu trên biển

Căng thẳng không ngừng leo thang giữa hai nước anh em xã hội chủ nghĩa sau khi Trung Quốc điều tàu khảo sát địa chất Hải dương 8 vào hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, cản trở các hoạt động thăm dò dầu khí của Việt Nam liên doanh với các nước khác trên các vùng biển thuộc thềm lục địa Việt Nam, theo định nghĩa của Công ước Quốc tế về Luật biển 1982.

Hà nội tố cáo Bắc Kinh xâm phạm chủ quyền của Việt Nam tại bãi Tư Chính, lọt thỏm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý được quốc tế công nhận, trong khi Bắc Kinh vẫn đơn phương tuyên bố chủ quyền trên hầu hết diện tích Biển Đông.

Việt Nam lần này phản ứng mạnh mẽ và công khai một cách bất thường. Một mặt gửi tàu cảnh sát biển tới bãi Tư Chính để thách thức tàu hải cảnh Trung Quốc, mặt khác chính thức phản đối Trung Quốc, và còn kêu gọi “tất cả các bên liên quan trong cộng đồng quốc tế hãy góp phần duy trì trật tự, hòa bình và ổn định trên Biển Đông”.

Người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê thị Thu Hằng cho biết Việt Nam đã liên lạc với phía Trung Quốc và “mạnh mẽ đòi Trung Quốc phải ngưng mọi hoạt động bất hợp pháp, rút tàu ra khỏi các vùng biển của Việt Nam.”

Ngày hôm sau, dường như để đáp ứng lời kêu gọi của phía Việt Nam, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ra tuyên bố bày tỏ quan tâm về “hành động cậy mạnh đe dọa Việt Nam và ngăn cản các hoạt động từ lâu của Việt Nam, thăm dò và khai thác tài nguyên dầu khí ở Biển Đông”. Tuyên bố của Mỹ hối thúc Bắc Kinh hãy “ngưng hành vi bắt nạt của mình và tự chế, tránh các hoạt động có tính cách khiêu khích và gây bất ổn.”

Tuyên bố của Mỹ muốn chỉ ra rằng các quyền lợi của Hà nội và Washington giờ đã tụ về một điểm. Hai bên đều muốn thách thức các tuyên bố chủ quyền phi lý của Trung Quốc trên Biển Đông, mà cả hai nước cho là quá tham lam. Việt Nam lẽ đương nhiên muốn bảo vệ chủ quyền và các lợi ích hàng hải của mình trong Biển Đông, trong khi Hoa Kỳ đang tìm cách kiềm hãm cao vọng bành trướng của Trung Quốc trong khu vực, thách thức vị thế cường quốc số 1 của Hoa Kỳ.

Tiến sĩ Lê Hồng Hiệp đặt nghi vấn về tính hợp lý của chính sách đối ngoại của Trung Quốc, ông nói vào thời điểm khi mà cường quốc đang lên ở Châu Á cần đến các nước bạn và đồng minh để đối phó với những sự đối đầu của Hoa Kỳ, thì Bắc Kinh lại đẩy Việt Nam ra xa, vào vòng tay của Mỹ.

Ông đặt câu hỏi, tại sao Việt Nam phải cân nhắc những sự nhạy cảm về an ninh của Trung Quốc, trong khi nước này không lý gì tới những quan tâm an ninh chính đáng của Việt Nam? Trong khi đó thì Hoa Kỳ đang mở rộng vòng tay, mời gọi Việt Nam tham gia một cấu trúc an ninh liên kết khu vực, có thể giúp Việt Nam mặc cả với Trung Quốc và được hưởng những lợi ích qua các nỗ lực của Hoa Kỳ tăng sức cho các đối tác khu vực, về cả mặt kinh tế lẫn quân sự, để kiềm hãm Trung Quốc.

Nguy cơ xung đột

Hệ thống truyền thông ABC của Úc bày tỏ lo ngại về nguy cơ xung đột bùng nổ trong khu vực vì những sự xung đột ở cả Biển Đông và biển Hoa Đông. Bài báo “‘Ready to fight’: Tensions escalate in South China Sea”, tạm dịch “Sẵn sàng úng chiến: Căng thẳng leo thang ở Biển Đông” đăng ngày 26/7, viết:

“Châu Á đã nhảy vọt một bước tới gần thảm họa. Máy bay chiến đấu của 4 nước đối đầu nhau trên không phận một hòn đảo đang tranh chấp. Việt Nam đang thách thức một tàu trinh sát có hành vi khiêu khích của Trung Quốc, và Philippines kêu gọi Hoa Kỳ, nước đã ký hiệp ước phòng vệ hỗ tương, hãy bảo vệ Philippines.”

Nguồn: VOA Tiếng Việt
0

Chuyên gia Biển Đông: Trung Quốc chép lỗi sai của bản đồ Anh để tạo 'đường 9 đoạn'

Chuyên gia Bill Hayton dẫn chứng tài liệu cho thấy "đường 9 đoạn" là một yêu sách rất mới, xuất phát từ việc Trung Quốc sao chép lỗi sai trong bản đồ của Anh.


Trung Quốc xây dựng trái phép tại đá Vành Khăn ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam tháng 10/2017. Ảnh: CSIS.

Yêu sách "đường 9 đoạn" của Trung Quốc có nguồn gốc từ sự thiếu hiểu biết và nhầm lẫn nghiêm trọng về Biển Đông của Trung Quốc trong giai đoạn 1933 - 1947, học giả Bill Hayton từ viện Chatham House của Anh khẳng định tại Hội thảo về Biển Đông lần thứ 9 do Trung tâm Nghiên cứu chiến lược Mỹ (CSIS) tổ chức tại Washington ngày 24/7.

Hayton dẫn các tài liệu và minh chứng lịch sử từ Trung Quốc cho thấy Trung Quốc chỉ bắt đầu quan tâm đến Hoàng Sa từ năm 1909, sau khi có thông tin Nhật Bản chiếm đóng và khai thác đảo Pratas, nằm gần Đài Loan. Đầu tháng 6/1909, Trung Quốc bắt đầu tổ chức đoàn khảo sát đi Hoàng Sa (nơi Việt Nam đã xác lập chủ quyền từ thế kỷ 17) và nêu yêu sách với quần đảo. Tuy nhiên, sau chuyến khảo sát và nhiều năm sau đó, Trung Quốc không quan tâm và có bất cứ động thái gì để thể hiện "chủ quyền" với quần đảo này, thậm chí Trung Quốc còn coi Hoàng Sa là cái "bẫy chết người", thường xuyên làm đắm tàu thuyền nước ngoài.

Cho tới ngày 14/7/1933, sau khi Pháp, lúc đó là chính quyền bảo hộ cho Việt Nam, khẳng định có chủ quyền với các thực thể ở Trường Sa, nội bộ Trung Quốc hoàn toàn không hay biết về sự tồn tại của Trường Sa, vẫn nhầm tưởng Trường Sa và Hoàng Sa là một. Trong một văn bản Bộ Hải quân Trung Quốc gửi Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày 19/7/1933 nhằm xác minh thông tin về việc Pháp khẳng định chủ quyền với Trường Sa, bộ này khẳng định "sau khi khảo sát, không thấy có đảo nào ở 10 độ vĩ Bắc, 150 độ kinh Đông giữa Việt Nam và Philippines".

Tuy nhiên, vì nghi ngờ kết luận trên của Bộ Hải quân, chính phủ Trung Quốc lúc đó thành lập một "Uỷ ban điều tra về bản đồ đất nước" và đã tiến hành 25 cuộc họp từ giữa năm 1933 đến cuối năm 1934. Ủy ban này lập nên một danh sách 132 đảo được coi là của Trung Quốc ở Biển Đông.


Bill Hayton tại hội thảo của CSIS ở Mỹ ngày 24/7. Ảnh: CSIS.

Theo Hayton, danh sách này được sao chép và biên dịch hoàn toàn từ tiếng Anh sang tiếng Trung từ một Bản đồ Thuỷ Văn về Biển Đông do Anh vẽ năm 1906. Trong bản danh sách sao chép đó, các tên đảo được phiên âm sang tiếng Trung từ tên tiếng Anh. Ví dụ, bãi James Shoal được dịch và phiên âm thành Bãi Tăng mẫu, Vanguard Bank (bãi Tư Chính của Việt Nam) thành Bãi Tiền vệ (sau này đổi tên thành Vạn An Bắc).

Trong quá trình sao chép và phiên âm, Trung Quốc vô tình sao chép cả các lỗi và nhầm lẫn từ Bản đồ Thuỷ Văn của người Anh mà không hay biết. Nhiều thực thể trong danh sách không tồn tại trên thực địa vẫn được Trung Quốc đưa vào danh sách.

Cho tới năm 1933, Trung Quốc chưa bao giờ quan tâm, có yêu sách, và cũng chưa bao giờ khảo sát toàn bộ Biển Đông.

"Tuy nhiên, người Anh biết rõ các nhầm lẫn của mình nên đã nhận ra các nhầm lẫn y hệt trong danh sách đảo mà Trung Quốc sao chép", Bill Hayton nói.

Một bằng chứng khác về việc Trung Quốc hoàn toàn không có thông tin về các thực thể ở Biển Đông là Trung Quốc đã máy móc dịch tên đảo và hiểu sai hoàn toàn bản chất các thực thể ở Biển Đông. Bãi ngầm, trong tiếng Anh gọi là "shoal", đã được Trung Quốc dịch thành Bãi (滩 - Tan) và hiểu đó là các đảo, bãi nổi.


Bản đồ quần đảo châu Á, do Công ty Eastward Stanford xuất bản năm 1918.

Vì nhầm tưởng các bãi ngầm Tăng Mẫu (James shoal) và Vạn An Bắc (Vanguard bank) là bãi nổi, năm 1936, Bạch Mai Sơ, một nhà địa lý học Trung Quốc đã vẽ một đường nét liền bao quanh các "đảo" trên Biển Đông, lấn sâu xuống phía nam và phía tây Biển Đông để thể hiện cái gọi là chủ quyền ở Biển Đông của Trung Quốc. Bản Đồ của Bạch Mai Sơ sử dụng có nguồn gốc từ bản đồ năm 1918 của Anh về Biển Đông.

"Sự thiếu hiểu biết và sai lầm nghiêm trọng của Trung Quốc về Biển Đông đã khiến 'đường 9 đoạn' có hình thù như hiện nay", Hayton nhận định.

Trịnh Tư Ước và Phó Giác Kim, hai sinh viên giúp Bạch Mai Sơ vẽ đường chữ U liền đoạn sai lầm nói trên, đã được tuyển dụng vào Bộ Nội vụ Trung Quốc vào năm 1946 và được giao nhiệm vụ xác lập biên giới quốc gia sau khi Thế chiến II kết thúc. Dựa trên bản đồ đường chữ U sai trái mà họ hỗ trợ vẽ năm 1936, họ đã tiếp tục dựng lên bản đồ đường chữ U 11 đoạn đầu tiên cho chính phủ Trung Quốc vào năm 1947.


Bản đồ đường chữ U đầu tiên Bạch Mai Sơ xuất bản năm 1936 là đường quy thuộc các "đảo" ở Biển Đông. Ảnh: Bill Hayton.

Yêu sách này cũng đã liên tục thay đổi trong nửa đầu thế kỷ 20. Hayton cho rằng nếu vào những năm 1930 - 1950, Trung Quốc thực sự hiểu biết về trạng thái địa lý các thực thể trên Biển Đông, đường chữ U mà Trung Quốc vẽ ra ở Biển Đông có thể bé hơn nhiều lần so với đường chữ U hiện nay.

"Minh chứng lịch sử nêu trên cho thấy cái gọi là yêu sách 'đường 9 đoạn' hiện nay của Trung Quốc là một yêu sách rất mới xuất phát từ sự thiếu hiểu biết và các nhầm lẫn của Trung Quốc về Biển Đông", theo Bill Hayton. Hayton thậm chí còn cho rằng "đường 9 đoạn" còn ít tuổi hơn cả bố mẹ của ông, "chứ không phải đã có từ nghìn đời nay như Trung Quốc thường nói".

Hayton cho rằng nhầm lẫn của Trung Quốc trong lịch sử là nguồn gốc chính của tranh chấp Biển Đông hiện nay. Vì vậy, một hướng tìm giải pháp cho tranh chấp Biển Đông hiện nay là làm rõ sự thật lịch sử.

"Đài Loan là nơi lưu trữ tất cả các hồ sơ của Trung Quốc những năm 1930 - 1940. Họ có thể nắm giữ chìa khoá quan trọng cho tranh chấp Biển Đông hiện nay", Hayton gợi ý.

Trường An/ VnExpess (từ Washington D.C)
0

Hạ viện Mỹ kêu gọi Trung Quốc ngừng bắt nạt Việt Nam ở Biển Đông

Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ ra tuyên bố kêu gọi Trung Quốc rút tàu và chấm dứt hành vi bắt nạt, vi phạm chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông.


Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ Eliot L. Engel. Ảnh: AFP.

"Các hành động hung hăng gần đây của Trung Quốc ở Biển Đông là minh chứng đáng lo ngại về một quốc gia công khai phớt lờ luật pháp quốc tế. Theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), các hành động của Trung Quốc là hành vi vi phạm chủ quyền của Việt Nam và các quyền hợp pháp của họ trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ). Ngoài ra, các hành vi của Trung Quốc còn đe dọa lợi ích của các công ty Mỹ hoạt động trong khu vực", Eliot L. Engel, Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ ngày 26/7 ra tuyên bố.

Ông Engel cho biết kể từ khi các thông tin về việc tàu khảo sát dầu khí của Trung Quốc vào EEZ Việt Nam phủ sóng trên truyền thông từ tuần trước, Việt Nam đã nhiều lần yêu cầu Trung Quốc rút tàu nhưng Bắc Kinh cố tình phớt lờ.

"Kiểu quấy rối này là mối đe dọa đối với Việt Nam và là bằng chứng cho thấy Trung Quốc sẵn sàng bắt nạt các nước láng giềng. Những sự cố như thế này chứng tỏ Trung Quốc ngang nhiên coi thường luật pháp và ngoại giao quốc tế", ông nói thêm.

"Tôi đứng về phía Việt Nam và các đối tác khu vực để lên án hành vi hung hăng này. Cộng đồng quốc tế phải tiếp tục duy trì trật tự và luật pháp quốc tế. Tôi kêu gọi Trung Quốc rút ngay lập tức tất cả tàu khỏi vùng biển của các nước láng giềng và chấm dứt các chiến thuật bắt nạt bất hợp pháp này", Engel tuyên bố.

Nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 trong những ngày qua có các hoạt động vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông. Việt Nam đã có nhiều biện pháp giao thiệp ngoại giao phù hợp, trao công hàm phản đối cho phía Trung Quốc, yêu cầu rút ngay khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Các lực lượng chức năng của Việt Nam đã triển khai các biện pháp phù hợp, đúng pháp luật.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao nhấn mạnh lập trường nhất quán của Việt Nam là kiên quyết, kiên trì đấu tranh bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế và UNCLOS trước bất cứ hành vi nào xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trên các vùng biển được xác định phù hợp với UNCLOS.

Trong cuộc họp báo ngày 22/7, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng nói rằng "tình hình Biển Đông nhìn chung vẫn ổn định", đổ ngược cho "các thế lực bên ngoài", trong đó có Mỹ, "từ lâu đã đưa ra những bình luận nhằm khuấy động rắc rối và gieo rắc hiềm khích".

Bộ Ngoại giao Mỹ ngày 20/7 cũng ra thông cáo với tiêu đề "Sự áp bức của Trung Quốc với hoạt động dầu khí trên Biển Đông", bày tỏ ngại trước những báo cáo về việc Bắc Kinh có hành vi can thiệp hoạt động khai thác dầu khí trong khu vực, bao gồm hoạt động thăm dò và khai thác lâu nay của Việt Nam.

Phương Vũ/VnExpress
0

[TV 3] Tin Biển Đông: Đối đầu Bãi Tư Chính



Bã Tư Chính: Tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất số 8 của TQ đang được các tàu đánh cá vỏ thép "Quỳnh Tam Sa Ngư" bảo vệ. Những tàu này được cho là thuộc lực lượng dân quân biển Trung Quốc.

Tin tức về vụ đối đầu xung quanh bãi Tư Chính, Nhà giàn DK1, Lô dầu khí 06.1.
0

Gia hạn hoạt động giàn khoan ở Bãi Tư Chính, Việt Nam tiếp tục cứng rắn trước Trung Quốc


Giàn khoan Hakuryu 5 hoạt động trên Biển Đông vào ngày 29/4/2018.

Việt Nam vừa ra thông báo rộng rãi về việc gia hạn thời gian hoạt động của giàn khoan Hakuryu 5 tại Lô 06.1 bể Nam Côn Sơn, phía tây bắc Bãi Tư Chính, một động thái được cho là “bất tuân” tiếp theo của Hà Nội sau khi khước từ yêu cầu của Bắc Kinh hồi tháng 6 là rút lại giàn khoan này, dẫn đến việc Bắc Kinh thực hiện lời đe dọa “hành động mạnh” bằng việc đưa tàu thăm dò Hải Dương Địa Chất 8 đến khu vực, theo tiết lộ của một chuyên gia nghiên cứu với VOA.

Trong khi các dữ liệu theo dõi cho thấy tàu thăm dò Hải Dương Địa Chất 8 của Trung Quốc vẫn tiếp tục hoạt động gần khu vực Bãi Tư Chính ở Biển Đông bất chấp phản đối từ phía Việt Nam và chỉ trích của Mỹ, một số nguồn tin cho hay Bắc Kinh đã yêu cầu Hà Nội rút giàn khoan ở khu vực này đi và đổi lại, Trung Quốc sẽ rút các tàu của họ. Nhưng Việt Nam bác bỏ đề nghị này.

Trao đổi với VOA hôm 25/7, TS. Hà Hoàng Hợp xác nhận thông tin về những đòi hỏi của Trung Quốc hồi tháng 6.

“Đúng là họ có trao đổi với một số nơi ở Việt Nam điều kiện như thế”, TS. Hà Hoàng Hợp khẳng định với VOA. “Họ đòi Việt Nam phải bắt công ty Nhật và công ty Nga phải rút khỏi chỗ đấy. Nếu không rút thì họ sẽ có hành động mạnh”.

Trung Quốc đã thực hiện lời đe dọa bằng cách đưa con tàu dài 88 met, rộng 20,4 met, với tổng trọng tải 6.918 tấn đến “thăm dò” trong khu vực gần Bãi Tư Chính kể từ ngày 3/7. Vụ việc đã đẩy căng thẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc lên đến đỉnh điểm kể từ sau vụ Trung Quốc đưa giàn khoan HD-981 vào Biển Đông năm 2014.

Thông báo của Tổng Công ty Bảo đảm An toàn Hàng hải miền Nam, thuộc Bộ Giao thông Vận tải, được truyền thông Việt Nam trích dẫn ngày 25/7 cho biết hoạt động khoan của khu vực Lô 06.1 bể Nam Côn Sơn do công ty Rosneft Việt Nam B.V. (công ty con của Công ty Rosneft của Nga) “dự kiến kéo dài đến hết ngày 15/9/2019”.

Trang Twitter IndoPacific_SCS_Info, nơi thường xuyên cập nhật tin tức về Biển Đông, nói rằng hoạt động của giàn khoan Hakuryu 5 lẽ ra chấm dứt vào ngày 30/7 theo như kế hoạch ban đầu, nhưng “Việt Nam không lùi bước”.

Theo phân tích của TS. Hà Hoàng Hợp, động thái thông báo gia hạn từ phía Việt Nam là “có và không” liên quan đến căng thẳng ở Bãi Tư Chính.

TS. Hà Hoàng Hợp nói việc gia hạn là do các công ty khai thác dầu khí của Nga, Nhật thực hiện và Bộ Giao thông Vận tải Việt Nam ra thông báo là để tàu bè đi lại có thể tránh xa khu vực này.

Hợp đồng ban đầu nói có khả năng [hoạt động khai thác] kéo dài 60-90 ngày. Mà bắt đầu khoan từ ngày 29/6 tới giờ chưa được một tháng, thì phải khoan thêm thì mới đạt kết quả về mặt kỹ thuật”, Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp nói với VOA.

Còn yếu tố “có liên quan”, theo ông, là vì Trung Quốc đã từng yêu cầu Việt Nam rút giàn khoan này đi nhưng phía Việt Nam khước từ.

Theo chuyên gia của Viện Nghiên Đông Nam Á ISEAS, động thái thông báo gia hạn hoạt động từ phía Việt Nam tái khẳng định một lần nữa rằng đòi hỏi của Bắc Kinh là “không hợp lý”.

Người Nga đã khai thác ở chỗ đó từ năm 2013, sau khi mua lại cổ phần từ công ty BP của Anh quốc và một cố phần nhỏ của công ty Conoco Philips. Từ đó đến giờ họ làm rất tốt, và ai cũng khẳng định khu vực đó là thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, không tranh cãi được”.

Trong một diễn tiến cùng ngày 25/7, người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng lặp lại lần thứ 3 rằng Việt Nam “kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền” và đã trao công hàm phản đối cho phía Trung Quốc về hoạt động của Hải Dương Địa Chất 8. Đây được xem là phản ứng mạnh nhất từ trước đến nay từ phía Việt Nam liên quan đến những vụ xung đột căng thẳng với Trung Quốc trên Biển Đông.

Theo VOA
0

Bộ Ngoại giao nói về khu vực bãi Tư Chính, giàn khoan DK1 đang bị Trung Quốc xâm phạm

Nói về vị trí lô dầu khí 06-1 tại bãi Tư Chính và giàn khoan DK1 mà Việt Nam đang khai thác nhưng bị nhóm tàu Hải Dương 8 của Trung Quốc xâm phạm, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng khẳng định: “Lô 06-1 nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Hành động của Trung Quốc là vụ việc nghiêm trọng”.


Nghe:


Chiều 25/7, tại cuộc họp báo thường kỳ Bộ Ngoại giao, báo giới bày tỏ sự quan tâm đặc biệt tới diễn biến căng thẳng trên Biển Đông và hành động gây hấn của Trung Quốc tại khu vực bãi Tư Chính của Việt Nam.

Theo đó, hàng loạt câu hỏi liên quan đến vụ việc được đặt ra: Vị trí hiện tại của nhóm tàu Hải Dương 8 Trung Quốc là ở đâu? Cho đến thời điểm này Việt Nam đã làm gì để giải quyết xung đột? Trong trường hợp những nỗ lực ngoại giao và biện pháp Việt Nam đã làm trong thời gian qua chưa đem lại hiệu quả thì bước tiếp theo Việt Nam sẽ làm gì để giải quyết bất đồng?

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng nhấn mạnh vụ việc nghiêm trọng này đã được đề cập trong các phát biểu trước đây. Như đã nhiều lần khẳng định, Việt Nam kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán như đã được xác lập tại Công ước Liên Hợp quốc về Luật biển 1982 bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế.

“Việt Nam đã có nhiều hình thức giao thiệp ngoại giao phù hợp, trao công hàm phản đối phía Trung Quốc, yêu cầu các tàu rút ngay khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.” - bà Lê Thị Thu Hằng nêu rõ quan điểm.

Cũng theo người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, các lực lượng chức năng Việt Nam triển khai các biện pháp phù hợp đúng pháp luật, duy trì hòa bình ổn định, đảm bảo tự do hàng không, hàng hải, đề cao thượng tôn pháp luật, tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của các quốc gia như được xác lập tại công ước của Liên hợp quốc về luật Biển năm 1982 là lợi ích và trách nhiệm chung của các nước và cộng đồng quốc tế.

“Việt Nam hoan nghênh và sẵn sàng cùng các nước và cộng đồng quốc tế nỗ lực đóng góp vào mục tiêu nói trên vì hòa bình, ổn định hợp tác và phát triển của tất cả các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.” - bà Hằng nhấn mạnh.


Lô 06-1 Việt Nam đang khai thác, nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. (ảnh: PVN)

Trước đề nghị xác định vị trí lô 06-1 gần bãi Tư Chính và giàn khoan DK1 mà Việt Nam đang khai thác nhưng bị nhóm tàu Hải Dương 8 của Trung Quốc gây hấn, Người phát ngôn Lê Thị Thu Hằng nêu rõ: “Lô 06-1 nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam”.

Châu Như Quỳnh/ Dân Trí
0

Việt Nam kiên quyết bảo vệ quyền chủ quyền ở Biển Đông

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao hôm nay tuyên bố Việt Nam sẽ kiên quyết bảo vệ chủ quyền và lợi ích theo UNCLOS ở Biển Đông, đồng thời hoan nghênh đóng góp tích cực của cộng đồng quốc tế.


Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng. Ảnh: BNGVN


Nghe:


"Về vụ việc nghiêm trọng này, chúng tôi đã đề cập nhiều lần trong các phát biểu trước đây. Việt Nam kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán đã được xác lập tại Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS) bằng các biện pháp hoà bình, trên cơ sở của luật pháp quốc tế", người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng nói trong họp báo hôm nay.

Tuyên bố được bà Hằng đưa ra khi trả lời câu hỏi về các biện pháp của Việt Nam sau khi nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 trong những ngày qua có các hoạt động vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông.

Người phát ngôn nêu rõ Việt Nam đã có nhiều biện pháp giao thiệp ngoại giao phù hợp, trao công hàm phản đối cho phía Trung Quốc, yêu cầu rút ngay khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Các lực lượng chức năng của Việt Nam đã triển khai các biện pháp phù hợp, đúng pháp luật.

"Duy trì hoà bình, ổn định và tự do hàng hải, hàng không, đề cao thượng tôn pháp luật, tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của các quốc gia như được xác lập tại UNCLOS là lợi ích và trách nhiệm chung của các nước và cộng đồng quốc tế. Việt Nam hoan nghênh và sẵn sàng cùng cộng đồng quốc tế nỗ lực đóng góp vào mục tiêu nói trên, vì hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới", bà Hằng nói.
0

Vì sao Trung Quốc gây hấn tại bãi Tư Chính của Việt Nam?

Đây là nhận định được GS. TS. Luật sư Nguyễn Bá Diến, Chủ tịch Viện Nghiên cứu Khoa học Biển và Hải đảo, đưa ra trong bối cảnh, trong những tuần qua, nhóm tàu khảo sát Hải Dương Địa chất 8 (Haiyang Dizhi 8) của Trung Quốc có hành vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông.


Tàu khảo sát Hải Dương Địa chất 8 của Trung Quốc đang có những hành vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông. Ảnh: SCMP.


Nghe:


Phép thử cho tham vọng lâu dài

Theo Giáo sư Diến, vấn đề Biển Đông cũng như tham vọng độc chiếm Biển Đông đã được Trung Quốc lên chiến lược và “lập trình” từ rất lâu và được phôi thai ngay từ khi thành lập nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (1949) với tham vọng vươn lên làm bá chủ thế giới.

Để đạt được tham vọng này, Trung Quốc phải trở thành cường quốc biển, phải độc chiếm và thống trị Biển Đông - kho tài nguyên thiên nhiên (hải sản và khoáng sản, dầu mỏ, khí đốt, băng cháy) giàu có và tuyến hàng hải quan trọng nhất của thế giới. Vì vậy, ngay trong tuyên bố của mình năm 1958, khi ban hành Luật về Lãnh hải, Trung Quốc đã ngang nhiên tuyên bố “Trung Quốc có chủ quyền đối với Tây Sa và Nam Sa” (trên thực tế là quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam).

Trong các tài liệu nghiên cứu của Trung Quốc, ngay từ những năm 60 của thế kỷ trước, đều khẳng định, Biển Đông là “bể cá vàng” là “con đường sinh mệnh” là “yết hầu” của Trung Quốc. Đặc biệt là sau báo cáo của Ủy ban Kế hoạch Kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương của Liên Hợp Quốc từ năm 1969 dự báo Biển Đông là một nơi giàu tài nguyên thiên nhiên, đặc bệt là dầu mỏ và khí đốt, Trung Quốc bắt đầu “để mắt” đến Biển Đông.

Đến năm 1992, Trung Quốc ngang ngược ký hợp đồng thăm dò dầu khí trên bãi Tư Chính của Việt Nam với một công ty tư nhân của Mỹ tên là công ty Crestone. Hợp đồng phi pháp này đã bị Việt Nam và cả Bộ ngoại giao Hoa Kỳ phản đối. Đến năm 2009, Trung Quốc chính thức đệ trình lên Liên Hợp Quốc yêu sách “đường lưỡi bò” phi pháp, “nuốt trọn” gần như toàn bộ Biển Đông, vi phạm các chuẩn tắc cơ bản Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên Hợp Quốc mà Trung Quốc đã cam kết.

Trung Quốc muốn “giải cơn khát năng lượng ngày càng tăng với cấp số nhân” và đảm bảo về mặt an ninh năng lượng để phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế rất mạnh với tham vọng vươn lên siêu cường và “Cảnh sát trưởng thế giới”. Các chuyên gia và nhà cầm quyền Trung Quốc từ lâu đã dự báo về sự “khát năng lượng” của nước này. Hiện nay, Trung Quốc đang nhập khẩu tới gần 60% dầu mỏ, đến năm 2030, con số này sẽ tăng lên 66,6% và đến năm 2040 sẽ là 75%.

Hơn thế nữa, khoảng hơn 7 năm nay, xung đột tại khu vực Trung Đông-Bắc Phi mà gần đây nhất là những diễn biến căng thẳng giữa Mỹ và Iran, nơi lượng dầu mỏ của Trung Quốc chủ yếu được nhập về qua eo biển Hormuz, khiến Trung Quốc cảm thấy bất an. Nếu căng thẳng leo thang, Iran hoàn toàn có thể tính đến phương án phong tỏa eo biển này. Điều này khiến Trung Quốc gặp muôn vàn khó khăn khi chính các chuyên gia của nước này ước tính, tổng dự trữ dầu mỏ của Trung Quốc không vượt quá 10-15 ngày.

Cũng theo Giáo sư Diến, hành vi của Trung Quốc ở bãi Tư Chính chính là cách để nước này “thử phản ứng” của Việt Nam như đã từng xảy ra khi nước này kéo giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng biển của Việt Nam hồi năm 2014. Trung Quốc cũng muốn thông qua hành động này để “nắn gân” Mỹ trong bối cảnh hai bên vẫn đang có tranh chấp về thương mại.

Trong khi đó, theo Giáo sư Diến, soi chiếu từ vị trí địa lý để xem xét trên khía cạnh pháp lý, đặc biệt là chiểu theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS 1982) – bản “Hiến pháp về Đại dương” và Phán quyết Tòa Trọng tài Quốc tế ngày 12/7/2016, được thành lập theo UNCLOS 1982 – bãi Tư Chính hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

Hành động pháp lý- “nỏ thần” thời hiện đại của Việt Nam

Giáo sư Diến giải thích, bãi Tư Chính (mà Trung Quốc gọi là bãi Vạn An Bắc) nằm cách bờ biển Vũng Tàu 160 hải lý và cách bờ biển Đảo Hải Nam của Trung Quốc hơn 600 hải lý. Trong khi đó, theo UNCLOS, một quốc gia ngoài vùng nội thủy và lãnh hải thì từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải, quốc gia ven bờ được quyền có vùng đặc quyền kinh tế tối đa 200 hải lý và có vùng thềm lục địa tối thiểu là 200 hải lý và tối đa là không quá 350 hải lý tính từ đường cơ sở hoặc cách đường đằng sau 2.500m nước một khoảng cách là 100 hải lý.

Như vậy, vùng thềm lục địa của Trung Quốc không thể kéo dài đến bãi Tư Chính. Không thể nói bãi Tư Chính nằm trong vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của Trung Quốc. Trong khi đó, cũng chiểu theo UNCLOS, bãi Tư Chính nằm trong phạm vi 200 hải lý vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.

Phán quyết Tòa Trọng tài Quốc tế ngày 12/7/2016, cũng đã bác bỏ yêu sách phi lý đường lưỡi bò của Trung Quốc, đồng thời nêu rõ các thực thể ở ngoài khơi Biển Đông, bao gồm một số thực thể ở Trường Sa chỉ có thể có lãnh hải 12 hải lý; không một thực thể nào có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa (theo Khoản 3 Điều 121 UNCLOS).

Từ lâu, Việt Nam cũng đã thực hiện quyền chủ quyền đối với bãi Tư Chính. Ngay từ năm 1971, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã cho tiến hành phân lô đấu thầu thăm dò khai thác. Năm 1988, Chính phủ Cộng hòa XHCN Việt Nam cũng đã phân lô và mời các nhà thầu nước ngoài đến thăm dò, khai thác dầu khí tại đây.

Đến năm 1994, Việt Nam cũng đã ký hợp đồng với một công ty năng lượng lớn của Mỹ là ExxonMobil để khai thác lô dầu khí ở bãi Thanh Long cùng nằm trong phạm vi bãi Tư Chính. Từ năm 1989 cho đến nay, Chính phủ Việt Nam đã thiết lập Cụm Kinh tế, Khoa học và Dịch vụ có các trạm, nhà chòi, giàn khoan và đèn biển để tạo thuận tiện và hỗ trợ cho giao thông hàng hải, đánh bắt hải sản, nghiên cứu khoa học và các hoạt động thăm dò khai thác dầu khí. Như vậy, có thể thấy, Việt Nam đã thực hiện quyền chủ quyền đối với bãi Tư Chính hoàn toàn phù hợp với pháp luật cũng như theo đúng UNCLOS.


Khu vực nhà giàn DK1, trong đó có Bãi Tư Chính, nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý tính từ đường cơ sở của Việt Nam.

Theo Giáo sư Diến: “Hành vi của Trung Quốc là đi ngược lại hoàn toàn phán quyết của Tòa Trọng tài Quốc tế trong vụ Philippines kiện Trung Quốc ở Biển Đông- nơi Trung Quốc từng thực hiện chính sách 3 không: “Không thừa nhận thẩm quyền, không tham gia tố tụng và không chấp nhận phán quyết” nhằm vô hiệu hóa trên thực địa phán quyết Tòa Trọng tài Quốc tế ngày 12/7/2016, được thành lập theo Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên Hợp Quốc. Điều này cho thấy Trung Quốc sẵn sàng dẫm đạp lên các nguyên tắc cơ bản nhất của luật pháp quốc tế và cho thấy sự ngang ngược và nguy hiểm của những âm mưu và các hành vi này”.Trong khi đó, trong những ngày qua, các tàu Hải cảnh của Trung Quốc đã có những hành vi đe dọa sử dụng vũ lực đối với các tàu của Việt Nam ở bãi Tư Chính. Các cơ quan chức năng Việt Nam đã sử dụng mọi biện pháp để yêu cầu Trung Quốc chấm dứt các hành động của mình. Trên thực địa, các lực lượng chấp pháp Việt Nam cũng đã dùng các phương tiện, thiết bị, kể cả loa phát bằng tiếng Việt, tiếng Trung Quốc, tiếng Anh để tuyên bố hành động của Trung Quốc là vi phạm pháp luật và xâm phạm quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam nhưng vẫn bị phía Trung Quốc trắng trợn phớt lờ.

Để đối phó với những hành động sai trái của Trung Quốc, Giáo sư Diến cho rằng, Việt Nam cần ưu tiên giải quyết tranh chấp trên Biển Đông dựa trên nguyên tắc thượng tôn pháp luật, dựa trên các cơ sơ pháp lý bao gồm Hiến chương Liên Hợp Quốc, UNCLOS, thỏa thuận giữa ASEAN với Trung Quốc và nhận thức chung của lãnh đạo Việt Nam và Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông.

Giáo sư Diến khẳng định: “Các biện pháp pháp lý là giải pháp căn cơ, bền vững và lâu dài, văn minh, phù hợp với sự thật khách quan, phù hợp với xu thế chung của nhân loại và nhận được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Đây cũng là giải pháp ưu việt nhất, tối ưu nhất, là “bảo kiếm”, là “nỏ thần” của Việt Nam thời hiện đại. Việc chậm trễ sử dụng các biện pháp pháp lý có thể khiến chúng ta phải trả giá nặng nề hơn”.

Theo Hương Giang-Trần Khánh/ VOV.vn
0

Ba việc “rất quan trọng” Việt Nam phải làm để đấu tranh với Trung Quốc

Đại sứ Phạm Quang Vinh - nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam - đã nhấn mạnh như vậy trong cuộc trao đổi với PV Dân trí về việc nhóm tàu Hải Dương 8 của Trung Quốc xâm phạm vùng biển phía nam của Việt Nam (bãi Tư Chính) và bối cảnh Bắc Kinh “phớt lờ” yêu cầu của chúng ta về chấm dứt các hành vi vi phạm.


Nghe:


- Phóng viên: Thưa Đại sứ, những ngày qua Trung Quốc gia tăng hoạt động phi pháp, xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, đặc biệt tại bãi Tư Chính. Xin Đại sứ cho biết những ảnh hưởng của tình hình này tới cục diện Biển Đông và quan hệ hai nước?

- Đại sứ Phạm Quang Vinh: Chúng ta phải khẳng định rất rõ ràng rằng, đây là vùng biển hoàn toàn của Việt Nam, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam theo luật pháp quốc tế, Công ước Luật biển 1982. Các tàu của Trung Quốc đã xâm phạm vào vùng biển hợp pháp của Việt Nam, vi phạm luật pháp quốc tế, và là điều không thể chấp nhận được.

Việt Nam chủ trương hòa bình, hòa hiếu, mong muốn vun đắp quan hệ tốt đẹp với Trung Quốc, nhưng Việt Nam cũng kiên quyết bảo vệ chủ quyền biển đảo của mình. Do đó, chúng ta cần phải nói rõ với Trung Quốc về những vi phạm đó, Việt Nam không thể chấp nhận và vận động để công luận lên tiếng phản bác những hành động phi pháp này.

Mặt khác, Trung Quốc thường viện dẫn, thậm chí sử dụng vị thế, sức mạnh, để áp đặt yêu sách “đường lưỡi bò” phi lí của mình. Đây là điều trái với luật pháp quốc tế và bị thế giới bác bỏ.

- Trung Quốc tiếp tục đưa ra yêu sách “đường lưỡi bò” và cố tình bành trướng nhằm độc chiếm Biển Đông. Nhiều ý kiến cho rằng những hành động gây hấn của Trung Quốc là để tạo áp lực “bắt buộc” các nước phải công nhận “đường lưỡi bò” phi pháp. Đại sứ có bình luận gì?

- Câu chuyện cần nhấn mạnh ở đây là luật pháp quốc tế và luật pháp quốc tế phải được tuân thủ, dù đó là ai. “Đường lưỡi bò” của Trung Quốc không chỉ trái với luật pháp quốc tế, mà còn làm phức tạp thêm tình hình, vì nó xâm phạm vùng biển hợp pháp của các nước, mưu toan biến những vùng biển hợp pháp của nước khác thành khu vực của Trung Quốc hay khu vực có tranh chấp.

Hơn nữa, chính “đường lưỡi bò” phi lí và chính sách áp đặt bằng sức mạnh nêu trên đã làm gia tăng căng thẳng, mở rộng tranh chấp, ảnh hưởng tới hòa bình, an ninh, tự do hàng hải trên Biển Đông, tới việc hợp tác, xây dựng lòng tin ở khu vực. Đây là điều không ai có thể chấp nhận. Dư luận thế giới, các nước trong và ngoài khu vực, cộng đồng quốc tế đều phản bác, không chấp nhận yêu sách phi lý này của Trung Quốc.

Đại sứ Phạm Quang Vinh trao đổi với PV Dân trí về việc nhóm tàu Hải Dương 8 của Trung Quốc xâm phạm vùng biển phía nam của Việt Nam
Cũng phải nhấn mạnh rằng, Phán quyết của Tòa án quốc tế ngày 12/7/2016, nhất là phần đã tuyên về áp dụng Công ước Luật biển là một phần của luật pháp quốc tế và sẽ mãi giữ nguyên giá trị pháp lý, trong đó khẳng định Công ước Luật biển không chấp nhận “các yêu sách lịch sử” và hoàn toàn bác bỏ “đường lưỡi bò” của Trung Quốc.

Biển đông là khu vực địa chiến lược, rất quan trọng về giao thông hàng hải, hàng không và thông thương thương mại, kinh tế quốc tế. Do đó, tất cả các nước đều có lợi ích và cần nỗ lực đóng góp vào việc duy trì trật tự, hòa bình, an ninh hàng hải ở Biển Đông.

- Năm 2014, Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981 tới vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam. Lần này, Trung Quốc điều nhóm tàu đi sâu vào thềm lục địa và xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Những vi phạm trắng trợn của Trung Quốc ngày càng nghiêm trọng cả về tính chất và mức độ, thưa Đại sứ?

- Chúng ta không nên võ đoán, nhưng có một điểm cần lưu ý là Trung Quốc đã nhiều lần vi phạm luật pháp quốc tế, xâm phạm vùng biển các nước. Một khi có vi phạm đối với chủ quyền biển đảo của mình thì chắc chắn chúng ta phải bảo vệ, lên tiếng với Trung Quốc, với khu vực và cộng đồng quốc tế.

Tuyên bố của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam ngày 19/7 là rất xác đáng, thể hiện rõ chính nghĩa, chủ trương hòa bình, kiên quyết bảo vệ các vùng biển hợp pháp của mình, giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, phù hợp với việc luật pháp quốc tế, Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982.

Hành động của Trung Quốc xâm phạm vùng biển hợp pháp của các nước, mưu toan biến những vùng biển hợp pháp của nước khác thành khu vực của Trung Quốc hay khu vực có tranh chấp
Mặt khác, như trên đã nhấn mạnh, Biển Đông không chỉ là lợi ích của các nước trong khu vực mà còn là lợi ích của tất cả các nước trên thế giới. Vì vậy, để bảo đảm hòa bình, an ninh, an toàn, tự do hàng hải, hàng không trên Biển Đông đòi hỏi các nước đều phải có trách nhiệm, có tiếng nói.

Thời gian qua, Việt Nam đã triển khai rất phù hợp, khéo léo và kiên quyết, tổng hợp các biện pháp, thể hiện được sự chính nghĩa, chủ trương hòa bình, hòa hiếu và nhấn mạnh luật pháp quốc tế, Công ước Luật biển.

- Trên thực tế, Bắc Kinh “phớt lờ” quan điểm và thiện chí của chúng ta về hòa bình, hòa hiếu. Đông đảo nhân dân Việt Nam đang kỳ vọng về những hành động mạnh mẽ để yêu cầu Trung Quốc chấm dứt hoàn toàn những hoạt động phi pháp. Theo Đại sứ, Việt Nam cần phải làm gì?

- Chúng ta cần phải đặt lại câu hỏi mà báo nêu trên, cái chính, đó là làm sao vừa giữ hòa bình, vừa bảo đảm chủ quyền biển đảo hợp pháp của mình. Có nhiều việc phải làm, nhưng có ba việc rất quan trọng cần làm trong bối cảnh hiện nay.

Một là, Việt Nam phải kiên trì đối thoại với Trung Quốc, nói rõ chủ trương hòa bình, quan hệ, nhưng chúng ta cũng cần phản bác và nói rõ vi phạm, yêu cầu Trung Quốc tôn trọng các vùng biển hợp pháp của Việt Nam. Hai là, công luận, áp lực của quốc tế là rất quan trọng, vì vậy chúng ta cần phải tiếp tục thông tin, vận động công luận, cả với khu vực và thế giới, phản đối những hành vi vi phạm của Trung Quốc, yêu cầu Trung Quốc tuân thủ luật pháp quốc tế. Ba là, lực lượng chức năng của Việt Nam phải tiếp tục hiện diện và thực thi pháp luật trên biển.

Trung Quốc cũng phải thể hiện trách nhiệm, cũng là vì chính lợi ích, vị thế, môi trường cho phát triển của mình, thì Trung Quốc phải tôn trọng, tuân thủ luật pháp quốc tế, xây dựng lòng tin và xây dựng môi trường láng giềng hòa bình - thân thiện trong khu vực một cách thực chất và hiệu quả.

- Mới đây lực lượng Tuần duyên Mỹ khẳng định cam kết hợp tác chặt chẽ với Cảnh sát biển Việt Nam đảm bảo tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông trong bối cảnh Trung Quốc tăng hiện diện quân sự, đồng thời sẽ có những động thái cụ thể nhằm ngăn chặn hành vi vi phạm của Trung Quốc. Đại sứ đánh giá như thế nào về sự hợp tác này?

- Ở đây có hai việc cần phân biệt rất rõ: Một là, hợp tác chung, vì hoà bình, ổn định ở khu vực, ta đã làm với nhiều nước, cả với ASEAN, Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ... Hai là, ta nhất quán chủ trương không đi với nước này để chống lại nước khác.

Chính sách quốc phòng an ninh của chúng ta là hoà bình, tự vệ và bảo vệ tổ quốc. Ta đã tranh thủ nhiều nước để xây dựng năng lực của mình bao gồm cả về năng lực an ninh hàng hải, chấp pháp trên biển. Ta cũng tham gia các hoạt động hợp tác của ASEAN ở khu vực.

ASEAN, các nước trong và ngoài khu vực đã có nhiều hình thức và đang đẩy mạnh các lĩnh vực hợp tác trên biển, nhằm tăng cường hiểu biết, xây dựng lòng tin, ứng phó với các thách thức, nhất là an ninh phi truyền thống như tìm kiếm cứu nạn, ứng phó thiên tiên, chống cướp biển hay các loại tội phạm khác.

Biển Đông không chỉ là lợi ích của các nước trong khu vực mà còn là lợi ích của tất cả các nước trên thế giới. Vì vậy, để bảo đảm hòa bình, an ninh, an toàn, tự do hàng hải, hàng không trên Biển Đông đòi hỏi các nước đều phải có trách nhiệm, có tiếng nói.
Cần nhấn mạnh thêm ở đây là các nước cần nỗ lực, hợp tác đóng góp vào duy trì và bảo đảm trật tự, hoà bình, an ninh trên biển, trên cơ sở luật pháp quốc tế, Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982.

- Xin trân trọng cảm ơn Đại sứ!

Theo Dân Trí
0

Huy động toàn dân bảo vệ chủ quyền và phẩm giá dân tộc

Trung Quốc có tham vọng bành trướng chủ quyền lãnh thổ và tầm ảnh hưởng. Do vậy, các tổ chức quốc tế sẽ là nơi giải quyết những vấn đề này.


Nghe:


Chia sẻ với Tuần Việt Nam liên quan đến những căng thẳng do Trung Quốc gây ra ở bãi Tư Chính, Chủ tịch Viện Michael Dukakis, Cựu Thống đốc bang Massachusetts, Hoa Kì - ông Michael Dukakis cho rằng, Trung Quốc có tham vọng bành trướng chủ quyền lãnh thổ và tầm ảnh hưởng, do vậy, các tổ chức quốc tế sẽ là nơi giải quyết những vấn đề này.

Người Mỹ đánh giá thế nào về thái độ của nước Mỹ trước những diễn biến ở Biển Đông hiện nay? Ta xem nước Mỹ đã phản ứng thế nào qua tuyên bố của người phát ngôn Morgan Ortagus: “Trung Quốc nên chấm dứt hành vi áp chế, và kiềm chế các hoạt động khiêu khích và gây bất ổn này". Thực ra, nước Mỹ luôn phản đối sự áp chế và đe dọa của bất kỳ bên nào nhằm khẳng định yêu sách lãnh thổ hoặc hàng hải.

Rõ ràng, Trung Quốc đang phá hoại hòa bình và an ninh khu vực khi cải tạo và quân sự hóa các tiền đồn tranh chấp ở Biển Đông, sử dụng lực lượng dân quân hàng hải để khiêu khích, đe dọa, áp chế các nước khác nhằm khẳng định yêu sách hàng hải phi pháp ở vùng biển này.

Những gì đang diễn ra ở vùng Biển Đông thực sự đáng quan ngại vì đây là tuyến đường hàng hải quan trọng. Người ta ước tính rằng, hàng hóa trị giá hàng ngàn tỷ đô la được vận chuyển qua tuyến biển mỗi năm, chiếm khoảng 30% giao dịch hàng hải toàn cầu, bao gồm lượng lớn dầu và ngàn ngàn tỷ đô la thương mại hàng năm của Mỹ. Nước Mỹ có quyền lợi ở đây.

Nhìn lại sự kiện Trung Quốc hạ đặt giàn khoan HD-981 tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam năm 2014, Mỹ đã gọi đây là hành động đơn phương của Trung Quốc theo cách suy yếu hòa bình và ổn định trong khu vực, đồng thời bày tỏ quan ngại về cách làm nguy hiểm này. Hoa Kỳ kêu gọi các bên kiềm chế, đảm bảo tự do hàng hàng hải và giải quyết tranh chấp một cách hòa bình, phù hợp với pháp luật quốc tế.


Ông Michael Dukakis: "Tôi muốn nhấn mạnh lại, Việt Nam có thể xác lập vị thế với cả Mỹ và Trung Quốc một cách mạch lạc, rõ ràng".

Việt Nam có vị trí địa chính trị rất quan trọng vì ráp gianh với Biển Đông. Vậy nước Mỹ nhìn nhận Việt Nam thế nào trong chiến lược của mình ở Châu Á - Thái Bình Dương?

Tôi cho rằng, Việt Nam là một nước có quan hệ sâu sắc với Mỹ, chúng tôi muốn có mối quan hệ tốt đẹp với Việt Nam. Sau những gì đã xảy ra trong chiến tranh, nước Mỹ nợ người Việt Nam một số sự trợ giúp đặc biệt. Tôi vui vì chúng ta đang có một mối quan hệ tốt. Việt Nam có thể giúp đỡ Mỹ trong việc giải quyết một số vấn đề. Chúng tôi rất trân trọng và mong đợi điều đó.

Với Trung Quốc, thì như chúng ta đã biết, không dễ dàng gì. Trung Quốc có tham vọng bành trướng chủ quyền lãnh thổ và tầm ảnh hưởng. Do vậy, các tổ chức quốc tế sẽ là nơi giải quyết những vấn đề này.

Chẳng hạn, Philippines đã đệ đơn lên Toà án Công lý Quốc tế và họ đã nhận được phán quyết rằng Trung Quốc đã vi phạm luật pháp quốc tế. Trung Quốc đã nói họ không quan tâm đến kết quả đó nhưng tôi nghĩ, Trung Quốc rất quan tâm đấy. Bởi vì, khi bạn có một phán quyết đồng thuận tuyệt đối từ một tòa án quốc tế nói rằng bạn sai rồi, chắn chắn bạn sẽ không thể làm ngơ và hành xử tùy tiện.

Việt Nam hiện là đối tác thương mại hàng đầu của Mỹ và Trung Quốc. Việt Nam nên hành xử như những đối tác có vị trí với cả hai cường quốc này. Tôi muốn nhấn mạnh lại, Việt Nam có thể xác lập vị thế với cả Mỹ và Trung Quốc một cách mạch lạc, rõ ràng. Chẳng hạn, Việt Nam có thể giúp đỡ Mỹ trong vấn đề Triều Tiên. Đó chính là cách vận hành và hoá giải mọi vấn đề.

Không quan niệm "ai là kẻ thù", mà hãy nhìn nhận đó là những đối tác, quan hệ với tâm thế bình đẳng, không e ngại nước lớn, nước nhỏ, từ đó đóng góp những giá trị cho thế giới, hiền hoà, nhưng không để nước nào dù lớn bắt nạt hay lấn át. Muốn vậy, Việt Nam cần có cơ chế phát huy cao nhất sức mạnh tổng lực của 96 triệu người đầy nhiệt huyết, có tinh thần quật khởi bảo vệ độc lập, chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ phẩm giá dân tộc. Đó chính là sức mạnh lớn nhất của Việt Nam.
Trung Quốc đang làm điều tệ hại là xâm phạm quyền, chủ quyền quốc gia của Việt Nam trên Biển Đông. Vậy các bạn nên làm gì?

Thế hệ chúng tôi đã chứng kiến trong thế kỷ 20 sự đối đầu căng thẳng giữa Nga và Trung, hay Mỹ và Nga trong chiến tranh lạnh. Nhiều người trong số chúng tôi đã nghĩ đến một cuộc chiến tranh. Nhưng rốt cuộc, đối thoại đã giúp giải quyết vấn đề.

Khi có nguy cơ xảy ra xung đột, thậm chí là chiến tranh, điều cần làm là tạo nên một diễn đàn quốc tế để tất cả các quốc gia trên thế giới cùng thảo luận, hỗ trợ nhau để dàn xếp vấn đề một cách hoà bình, không để các nước nhỏ bị nước lớn bắt nạt, ăn hiếp.

Bên cạnh đó, nền hoà bình giữa các quốc gia hay trên thế giới được thiết lập chỉ khi tất cả chúng ta cùng chung tay xây dựng một chuẩn mực chung. Không một quốc gia nào có thể một mình làm việc này. Nước Mỹ không thể làm cảnh sát cho cả thế giới. Chúng tôi đã từng thử làm việc đó rồi, nhưng kết quả là không ổn và nó khiến chúng tôi gặp nhiều rắc rối. Để có chuẩn mực chung làm nền tảng cho hòa bình cần nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế. Tất cả các quốc gia phải tham gia vào việc này.

Thế giới cần có chuẩn mực, các quốc gia cần liên kết trên một chuẩn mực chung. Hiện tại chưa có một mô hình hoàn hảo, nhưng cần chấp nhận mô hình tốt nhất đang có, từ đó tiếp tục hoàn thiện nó. Nếu không chấp nhận một chuẩn mực xã hội chung thì sẽ gây ra xung đột, tranh chấp… Phải tôn trọng chuẩn mực chung đó là dân chủ, công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, tôn trọng luật pháp quốc tế, có trách nhiệm với môi trường.

Đó cũng là cách để giải quyết các cuộc xung đột. Nếu quốc gia này hoặc quốc gia kia quyết định làm theo cách riêng của mình, xâm phạm tới quyền của các quốc gia, dân tộc khác thì hệ thống sẽ đổ vỡ. Đặc biệt, các nước lớn như Mỹ, Nga, Trung Quốc cần phải có trách nhiệm để bảo đảm thế giới được vận hành tốt trên cơ sở tôn trọng chuẩn mực chung đó.

Lan Anh/ Tuần Việt Nam
0

Vụ Bãi Tư Chính: Công ty Nga-Nhật ‘gây phức tạp’ cho TQ


Chuyên gia về Biển Đông nói với VOA tiếng Việt rằng công ty Nga và Nhật liên quan tới vụ “đối đầu” giữa tàu hải cảnh Việt Nam và Trung Quốc ở Bãi Tư Chính đã “gây phức tạp” cho quyết sách của chính quyền Bắc Kinh.

Ông Ryan Martinson, chuyên gia về hải quân Trung Quốc của Trường Hải Chiến Hoa Kỳ, cho biết rằng tính tới ngày 23/7, các tàu hải cảnh của Trung Quốc “vẫn hoạt động gần giàn khoan dầu của Nhật ở phía tây Bãi Tư Chính”, trong khi tàu Haiyang Dizhi 8 “tiếp tục tiến hành khảo sát địa chấn tại Vùng Đặc quyền Kinh tế của Việt Nam ở phía tây quần đảo Trường Sa”.

Tin cho hay, công ty Rosneft của Nga thuê giàn khoan Hakuryu-5 của Công ty Khoan thăm dò Nhật Bản (JDC) để thực hiện hoạt động thăm dò dầu khí tại Lô 06.1 của Việt Nam ở Biển Đông trong khu vực mà Hà Nội tuyên bố là Vùng Đặc quyền Kinh tế của mình.

Ông Martinson nói rằng “công ty Nga Rosneft đã gây phức tạp cho việc ra quyết sách của Bắc Kinh” vì “Trung Quốc sẽ không muốn làm bất cứ điều gì gây tổn hại tới mối quan hệ tốt đẹp với Nga”.

Theo ông Murray Hiebert, chuyên gia về Biển Đông tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế có trụ sở ở thủ đô Washington, việc các công ty Nga và Nhật liên quan tới vụ đối đầu lần này giữa tàu chấp pháp của Việt Nam và Trung Quốc đã “đa phương hóa” vụ việc, nhưng về cơ bản, các bên “nhiều khả năng coi đây là vấn đề giữa Hà Nội và Bắc Kinh”.

Liên quan tới vụ Bãi Tư Chính, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ hôm 20/7 ra tuyên bố nhắc tới cả Trung Quốc và Việt Nam, trong đó “mạnh mẽ phản đối việc cưỡng ép và đe dọa” đồng thời nói rằng Bắc Kinh “nên chấp dứt hành vi bắt nạt và ngưng thực hiện hoạt động gây bất ổn và khiêu khích này”.

Nguồn: VOA
0

Đô đốc Mỹ kêu gọi quốc tế chống hành động của Trung Quốc ở Biển Đông

Hoa Kỳ cho rằng quốc tế cần chung sức « chống lại những hành động gây hấn» của Trung Quốc ở Biển Đông. Theo báo chí Philipines, trong một hội nghị qua hệ thống viễn thông hôm qua, 23/07/2019, tư lệnh lực lượng tuần duyên Mỹ, đô đốc Karl Schultz kêu gọi các nước đồng minh, cũng như các đối tác của Mỹ trong vùng, cùng lên án những hành động hung hãn nhằm củng cố đòi hỏi chủ quyền quá đáng của Bắc Kinh ở Biển Đông.


Quân đội Trung Quốc tập trận trên Biển Đông ngày 12/04/2018.


Nghe:


Đô đốc Schultz nhấn mạnh đến việc hải cảnh Trung Quốc đã huy động đông đảo tầu tuần tra, được tầu của hải quân nước này yểm trợ, tại những hòn đảo nhân tạo mà Bắc Kinh chiếm giữ và tại phần lớn vùng Biển Đông.

Hành động gây hấn mới nhất của tầu hải cảnh Trung Quốc là sách nhiễu hoạt động khai thác dầu khí của Việt Nam trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, theo lời tố cáo của Hà Nội. Đô đốc Schultz nhấn mạnh Tuần duyên Mỹ « hợp tác chặt chẽ với Việt Nam. Phía Việt Nam đã nhiều lần hoàn thành chức năng bảo vệ tự do hàng hải ». Theo ông Schultz, việc lực lượng tuần duyên Mỹ có mặt ở Biển Đông là nhằm mục đích tái lập và tăng cường luật pháp quốc tế ở khu vực này.

Trong khi đó, tổng thống Duterte tỏ ra bị khuất phục trước Trung Quốc ở Biển Đông. Phát biểu trước Quốc Hội Philippines hôm 22/07, ông tuyên bố rằng việc quân đội Trung Quốc hiện diện ở Biển Đông chứng tỏ rằng Bắc Kinh « đã chiếm hữu » và « kiểm soát » toàn bộ con đường hàng hải chiến lược và giầu tài nguyên. Tổng thống Duterte biện minh rằng ông không muốn thách thức và xung đột với Trung Quốc.

Tuy nhiên, thẩm phán Antonio Carpio của Tòa Án Tối Cao Philippines chỉ trích tổng thống Duterte đã nhầm khi nói rằng Trung Quốc « sở hữu » Biển Đông, vì Bắc Kinh chỉ chiếm 7 đảo nhân tạo, tương đương với 10% tổng diện tích Biển Đông.

Dường như lập trường nhún nhường của tổng thống Duterte tiếp tục được người phát ngôn Salvador Panelo bảo vệ khi bác bỏ phát biểu của thẩm phán Carpio trong buổi họp báo ngày 23/07. Ông nhấn mạnh : « Khi người ta có một căn cứ quân sự, thể hiện rằng họ có thể kiểm soát toàn bộ khu vực, điều đó có nghĩa là họ đã chiếm giữ khu vực đó» .

Theo RFI
0