kimluc
Hiển thị các bài đăng có nhãn Văn học Trung Quốc. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Văn học Trung Quốc. Hiển thị tất cả bài đăng

Anh Vũ Châu (Bến Anh Vũ) - Thơ Lý Bạch


Anh Vũ châu

Anh vũ lai quá Ngô giang thuỷ,
Giang thượng châu truyền Anh Vũ danh.
Anh vũ tây phi Lũng sơn khứ,
Phương châu chi thụ hà thanh thanh.
Yên khai lan diệp hương phong khởi,
Ngạn giáp đào hoa cẩm lãng sinh.
Thiên khách thử thời đồ cực mục,
Trường châu cô nguyệt hướng thuỳ minh?


Dịch nghĩa

Chim anh vũ xưa bay đến sông Ngô
Bãi trên sông mới truyền lại tên Anh Vũ
Chim anh vũ đã bay về Tây qua núi Lũng
Bãi thơm cây xanh biếc làm sao!
Khói toả ra từ lá cây lan làm gió thơm nổi dậy
Bờ liền với hoa đào, sóng gấm sinh
Lúc ấy người đi đày trông hoài cõi xa
Trên bãi dài mảnh trăng cô đơn còn soi sáng cho ai.


(Năm 760)

Lý Bạch năm 56 tuổi bị lưu đày đi huyện Dạ Lang tỉnh Quý Châu. Khi chờ đò ngang để qua sông Trường Giang, ông làm bài này.

Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu

Sóng Ngô anh vũ xưa qua đó
Anh Vũ thành tên gọi đến giờ
Anh vũ về tây qua núi Lũng
Bãi thơm cây cối những xanh mờ
Mùi hương lan diệp lừng trong khói
Sóng gấm đào hoa gợn sát bờ
Thiên khách trông vời thôi cũng uổng
Dọi ai trăng bãi luống bơ vơ!


Nguồn: Đường thi tuyển dịch, NXB Thuận Hoá, 1997

Bản dịch của Hải Đà

Sông Ngô anh vũ lướt bay qua
Anh Vũ thành xưa vẫn gọi là
Núi Lũng trời tây anh vũ khuất
Bãi thơm cây biếc chập chờn xa
Lá lan thoang thoảng lừng hương gió
Sóng gấm bập bềnh lượn sát hoa
Lữ khách hoài trông trời tít tắp
Tình ai trăng dọi sáng đêm tà?

Bản dịch của Phụng Hà

Trường Giang thuở xưa anh vũ đáp,
Anh Vũ thành tên bãi sông Ngô.
Chim dạt về tây tận non Lũng,
Cây xanh bãi rạng hương ngạt ngào.
Lan thơm trong gió, khói mờ tỏa,
Đào thắm bên bờ, sóng gấm xô.
Đi đày, khách trông vời mút mắt,
Bãi sông ai ngắm mảnh trăng cô?

Bản dịch khuyết danh

Trên bãi sông Ngô anh vũ đậu,
Giờ đây chẳng thấy bóng chim đâu.
Hay đã bay về qua núi Lũng,
Bãi thơm cây trái mướt một màu.
Hương lan theo gió ngát mơn man,
Vẫy gọi đào hoa ánh ngập tràn.
Đi đầy qua đó như không thấy,
Chỉ thấy bờ xa mãnh trăng gầy.

0

Anh Vũ Châu (Bến Anh Vũ) - Thơ Lý Bạch


Anh Vũ châu

Anh vũ lai quá Ngô giang thuỷ,
Giang thượng châu truyền Anh Vũ danh.
Anh vũ tây phi Lũng sơn khứ,
Phương châu chi thụ hà thanh thanh.
Yên khai lan diệp hương phong khởi,
Ngạn giáp đào hoa cẩm lãng sinh.
Thiên khách thử thời đồ cực mục,
Trường châu cô nguyệt hướng thuỳ minh?
0

THỤY VÂN - Bồ Tùng Linh

Thuỵ Vân là danh kỹ của đất Hàng Châu. Nhan sắc tài nghệ có một. Năm tuổi mười bốn, mẹ là mụ đầu họ Sái định cho nàng ra tiếp khách.

Thụy Vân thưa rằng:

– Ðây là lúc bánh xe duyên nghiệp của đời con bắt đầu vận chuyển, không nên qua loa cẩu thả. Giá thì do mẹ định, nhưng khách thì xin cho con được tự lựa chọn.

Mẹ bảo được, bèn định giá mười lăm đồng vàng rồi hàng ngày ra tiếp khách.

Khách muốn gặp thì phải có lễ, lễ hậu mới được tiếp một ván cờ, một bức tranh, lễ bạc thì giữ lại uống chén trà mà thôi.

Thuỵ Vân lừng tiếng đã lâu, từ đó các bậc đại thương, giới quyền quí, ngày ngày nối gót nhau vào.

Giới Trấn Dư Hàng có người thư sinh họ Hạ, tài danh nức tiếng đã lâu mà gia tư chỉ vào bậc trung. Chàng vốn ngưỡng mộ Thụy Vân, nhưng chưa dám nghĩ đến giấc mộng uyên ương, cũng gắng hết sức sắm được chút lễ mọn, chỉ mong một phen nhìn ngắm mặt hoa, mà vẫn thầm lo nàng tri đời đã nhiều sẽ không đoái hoài gì đến một kẻ sĩ bần rách như mình.

Ðến lúc gặp mặt, trò chuyện dăm câu, nàng đã tiếp đãi rất mực ân cần. Ngồi nói chuyện giờ lâu, đầu mày cuối mắt đều chứa chan tình. Lại tặng chàng bài thơ:

Việc gì kẻ xin nước

Cầu lam phải nệm sương?

Có lòng tìm chày ngọc,

Ngay giữa chốn người thường

Ðược thơ, chàng mừng rỡ như cuồng, còn muốn nói gì nữa, bỗng con hầu vào báo khách đến, bèn vội vàng từ biệt. Về nhà, đem bài thơ ra ngắm nghía ngâm nga, tơ lòng vương vít.

Ðược một hai ngày, cầm lòng không đậu, lại phải sắm sửa lễ vật rồi trở lại.

Thụy Vân đón tiếp niềm nở, dần dần ngồi dịch lại gần chàng, nét mặt rầu rầu mà rằng:

– Có thể lo toan được một đêm sum họp với nhau không?

Chàng rằng:

– Học trò túng kiết chỉ có cái tấm tình si là có thể đem tặng tri kỷ; sắm được cái lễ biếu nhỏ mọn thì bao nhiêu tơ tằm đã rút hết; được gần mặt hoa là mãn nguyện lắm rồi, còn như tựa gió kề hoa dám đâu mộng tưởng.

Thụy Vân nghe nói chau mày không vui, hai người chỉ nhìn nhau mà không nói gì.

Chàng ngồi lâu không ra; mụ chủ giữ mấy lần gọi Thụy Vân, có thúc giục chàng về đi. Chàng bèn ra về, trong lòng buồn rười rượi. Muốn khánh kiệt gia sản để chuốc một lần vui, nhưng lại nghĩ, sum họp một đêm rồi phải ly biệt suốt đời, tình trạng ấy chịu làm sao nổi. Trù tính đến đấy thì nỗi lòng hăm hở đều tiêu mất hết.

Từ đó bặt không có tin tức vãng lai gì.

Thụy Vân kén khách mở khoá động đào mấy tháng mà chưa chọn được nơi nào xứng đáng. Mụ dầu khá bực tức, rắp toan ép uổng duyên nàng nhưng cũng chưa ra tay.

Một hôm, có chàng tú tài đem lễ biếu đến xin ra mắt, ngồi nói chuyện chốc lát liền nhổm dậy, lấy ngón tay ấn lên trán nàng mà nói: “Ðáng tiếc, đáng tiếc” rồi bỏ đi.

Thụy Vân tiễn khách ra, trở lại , thì mọi người đều thấy trên trán nàng có dấu tay in đen như mực, càng rửa càng thêm rõ.

Sau đó vài ngày vết mực dần dần lan rộng, hơn một năm sau thì lan khắp trán, đến cả mũi nữa. Ai thấy cũng cười mà từ đó, dấu vết xe ngựa ở ngoài cũng dần dần mất hẳn.

Mụ đầu lột hết trang sức, xếp nàng vào hàng ngũ con hầu. Thụy Vân vốn ẻo lả không đưng nổi công việc tôi đòi, ngày càng thêm tiều tuỵ.

Hạ nghe nói, đi qua ghé vào, thấy bù đầu ở dưới bếp, xấu xí như ma, ngẩng đầu thấy chàng thì quay mặt vào tường mà tránh.

Hạ đem lòng thương xót, bèn nói với mụ, muốn chuộc nàng về làm vợ.

Mụ bằng lòng.

Hạ bán ruộng và dốc hết hành trang vốn liếng mua nàng đem về. Ðến nhà, nàng kéo áo lau nước mắt, không dám tự xem là người sánh vai với chàng, chỉ xin giữ phận làm lẽ, để ngôi chính thất chờ người sau này.

Hạ nói:

– Ở đời, cái đáng quí là tri kỷ. Lúc khanh đang thịnh, khanh còn biết đến tôi, lẽ nào vì khanh suy mà tôi lại quên khanh?

Rồi không chịu cưới ai nữa. Ai nghe nói việc này cũng cười cợt, nhưng với chàng thì mối tình càng thêm nồng thắm.

Ðược hơn một năm. Hạ ngẫu nhiên đến đất Tô, gặp chàng thư sinh họ Hoà, cùng trọ một chỗ.

Bỗng dưng Hoà hỏi rằng:

– Danh kỹ đất Hàng là Thụy Vân gần đây ra sao?

Hạ đáp:

– Ðã lấy chồng rồi.

Hoà lại hỏi:

– Lấy ai đấy?

Ðáp:

– Người đó cũng đại loại như tôi.

Hoà nói:

– Ðược như anh thì có thể nói là đúng người rồi đấy, không biết giá bao nhiêu?

Hạ nói:

– Mắc phải bệnh lạ nên cũng rẻ thôi, chẳng thế, loại người chúng tôi sao có thể mua được người đẹp.

Hoà lại hỏi:

– Người đó quả thật có được như anh không?

Hạ thấy anh ta hỏi hơi lạ, nhân đó cũng căn vặn hỏi lại.

Hoà cười mà đáp rằng:

– Thực ra không giấu nhau nữa. Năm trước tôi từng được chiêm ngưỡng danh hoa một lần, rất lấy làm tiếc rằng tài mạo tuyệt vời mà lênh đênh không vừa đôi phải lứa, cho nên đã dùng một thuật mọn làm giảm bớt hào quang, và giữ gìn lấy vẻ ngọc, để dành lại đó chờ tấm gương soi thật mặt của kẻ yêu tài.

Hạ vội hỏi:

– Anh đã chấm được thì cũng có thể chữa được chứ?

Hoà cười mà rằng:

– Sao lại không được, nhưng mà cần vai chính thành tâm cầu xin thì mới được.

Hạ đứng dậy vái mà rằng:

– Người chồng của Thụy Vân tức là tôi đây!

Hoà mừng quá, nói:

– Trong thiên hạ, chỉ có người nhân tài mới thật đa tình, không vì chuyện xấu đẹp mà thay đổi ý nghĩ. Anh cho tôi theo anh về nhà, tôi sẽ tặng anh một người đẹp.

Bèn cùng nhau về. Ðến nơi, Hạ bảo dọn rượu, Hoà vội gạt đi mà rằng:

– Ðể tôi làm phép trước đã, thì người dọn cỗ mới vui lòng chứ!

Tức thì bảo bưng lên một thau nước, lấy ngón tay thư lên trên nước mà nói rằng:

– Rửa đi thì khỏi ngay! Nhưng phải đích thân ra tạ ơn người làm thuốc đấy!

Hạ cười, bưng thau đi vào, đứng đợi Thụy Vân tự rửa mặt trong thau, tay đưa đến đâu thì sạch đến đấy, diễm lệ chẳng khác gì năm xưa.

Vợ chồng cảm cái hậu đức của Hoà, cùng nhau ra ngoài tạ ơn, thì khách đã mất hút đâu rồi, tìm khắp nơi mà không được.

Có lẽ là tiên chăng?

CAO XUAN HUY dịch
0

THỤY VÂN - Bồ Tùng Linh

Thuỵ Vân là danh kỹ của đất Hàng Châu. Nhan sắc tài nghệ có một. Năm tuổi mười bốn, mẹ là mụ đầu họ Sái định cho nàng ra tiếp khách.

Thụy Vân thưa rằng:

– Ðây là lúc bánh xe duyên nghiệp của đời con bắt đầu vận chuyển, không nên qua loa cẩu thả. Giá thì do mẹ định, nhưng khách thì xin cho con được tự lựa chọn.
0

BỨC HỌA TRÊN TƯỜNG – Bồ Tùng Linh


Bức Họa Trên Tường

Mạch Long Ðàm, người Giang Tây, với hiếu liêm họ Chu đều là khách trọ ở kinh đô. Ngẫu nhiên cùng dạo chơi một cảnh chùa. Ðiện Phật, giải vũ, phòng tăng đều không lấy gì làm rộng rãi. Chỉ có một vì sư già trụ trì trong đó, thấy khách vào bèn xốc áo ra đón, rồi dẫn khách đi xem khắp đó đây. Trong điện có tô tượng Chí Công, hai bên tường đều vẽ vời rất tình xảo, nhân vật thảy đều như sống thật. Tường bên Ðông vễ bức” Thiên nữ rắc hoa”, ở trong có một thiếu nữ buông mái tóc thề, tay cầm bông hoa, miệng hé cười, đôi môi anh đào muốn nhấp nháy, làn sóng mắt dường như đung đưa.

Chàng Chu chú mục giây lâu, bất giác như bị mất hồn, bàng hoàng thờ thẫn. Rồi thân thể bỗng nhiên phơi phới, như cưỡi trên mây mù, thoắt cái đã bay lên đến bức tường.

Nhìn thấy lầu gác trùng trùng không phải là cõi trần. Một vị sư già đang thuyết pháp ở trên tòa, những người mặc áo hở vai vây xung quanh đông vô kể.

Chu cũng đứng lẫn vào trong số đó. Một chốc, tựa như có người ngầm kéo vạt áo, quay lại thì ra cô thiếu nữ có mái tóc thề, đang vừa cười vừa quay đi. Chàng lập tức trở gót bước theo.

Qua những hành lang quanh co thì có môt căn phòng nhỏ. Chu ngập ngừng không dám tiến nữa nhưng thiếu nữ đã quay đầu lại, đưa bông hoa trong tay lên có vẫy gọi, chàng liền bước theo vào.

Trong phòng tịnh không có người, chàng vội ôm chầm lấy, nàng cũng không kháng cự gì lắm, bèn cùng nhau giao hoan thỏa thích.

Xong rồi nàng đóng cửa ra đi, dặn Chu đừng hỏi. Ðến đêm lại đến.

Cứ thế được hai hôm, các bạn gái nàng biết được, cùng nhau tìm thấy chàng, liền trêu trọc nàng rằng:

– Cậu bé trong bụng đã lớn tướng mà con để mái tóc bồng bồng, cũng học đòi làm gái còn son ư?

Rồi bảo nhau đưa cho nàng nào trâm, nào hoa tai, bắt nàng cuốn ngược tóc lên.

Cô gái thẹn thùng, không nói lời nào. Một nàng bảo:

– Chị em ơi, tụi mình đứng đây lâu, kẻo người ta mất vui.

Cả bọn liền cười và bỏ đi. Chàng nhìn lại nàng, thì tóc mây đã búi cao lên, vành tóc phượng buông thấp xuống, so với cô gái để tóc thề lúc trước lại càng xinh đẹp gấp bội.

Nhìn quanh không có ai, bàn dắt nhau bước vào cuộc ân ái.

Hương lòng rạo rực, lạc thú đang nông, thì bỗng đâu nghe tiếng ủng da cồm cộp rất dữ, dây xích và khóa kêu loảng xoảng, cộng thêm tiếng quát tháo, tiếng cãi cọ huyên náo.

Nàng kinh hoàng nhỏm dậy, cùng với chàng đều ghé mắt nhìn trộm ra ngoài, thì thấy một vị sứ giả mặc áo giáp vàng, mặt đen như sơn, tay cầm khóa, tay nắm chùy, đám thiếu nữ xúm xít xung quanh.

Sứ giả nói:

– Ðã đủ chưa?

Có tiếng đáp:

– Ðủ cả rồi.

Sứ giả lại nói:

– Nhược bằng có chứa chấp người hạ giới thì lập tức bảo nhau cùng khai ra, chớ để phải hối về sau.

Cả bọn đồng thanh đáp:

– Không có đâu!

Sứ giả quay người, đưa cặp mắt cú vọ nhìn quanh, tựa hồ tìm ra kẻ đang nấp.

Cô gái cả sợ, mặt xám như tro, thảng thốt bảo chàng:

– Mau trốn xuống gầm giường.

Rồi mở cánh cửa ngách bên tường lẻn đi mất.

Chu nằm bẹp xuống, không dám thở.

Giây lát nghe tiếng ủng đi vào trong phòng rồi lại đi ra.

Chẳng bao lâu tiếng huyên náo xa dần, bụng đã yên, nhưng ngoài cửa vẫn có tiếng người qua lại bàn bạc.

Chu cứ thấp thỏm như thế giờ lâu, đến lúc bên tai như có tiếng ve kêu, trong mắt nẩy đom đóm, tình trạng ngỡ không chịu nổi nữa, chỉ còn cố lắng tai để đợi nàng về, cuối cùng cũng không còn nhớ thân mình từ đâu mà đến đây.

Bấy giờ Mạnh Long Ðàm đang đứng trước điện thờ chớp mắt đã không thấy Chu đâu, ngờ vực hỏi Nhà Sư.

Vị sư cười đáp:

– Ði nghe thuyết pháp rồi.

Mạnh Long Ðàm hỏi:

– Ở đâu?

Nhà Sư đáp:

– Không xa.

Một chốc Nhà Sư bèn gõ ngón tay lên tường mà gọi to lên rằng:

– Ông đàn việt họ Chu, đi chơi lâu thế, sao chẳng quay về?

Liền thấy giữa bức họa trên tường có hình của Chu, đang đứng nghển cổ lắng tai, chừng như nghe ngóng.

Nhà Sư lại gọi tiếp:

– Ông bạn cùng đi đợi lâu rồi đấy.

Thế rồi Chu bồng bềnh từ trên tường bay xuống, lòng lạnh như tro, người cứng đờ như gỗ, mắt trừng trừng, chân bủn rủn.

Mạnh đâm hoảng, sẽ sàng hỏi han.

Thì ra lúc đó Chu đang núp dưới giường, bỗng nghe tiếng gõ vang như sấm, vội chui ra khỏi phòng để nghe ngóng tình hình.

Cả hai cùng ngước nhìn cô gái nhón hoa thì mái tóc vặn hình ốc đã cuốn cao lên, không còn xõa tóc nữa.

Chu khiếp sợ, vái vị sư già mà hỏi duyên cớ.

Nhà Sư cười đáp:

– Ảo là do mình sinh ra, bần đạo làm sao giải thích được!

Chu ỉu xìu mất cả khí thế.

Mạnh sợ hãi không còn tự chủ nổi, vội đứng dậy lần bậc thềm ra

Dịch Giả: Nguyễn Huệ Chi
0

BỨC HỌA TRÊN TƯỜNG – Bồ Tùng Linh


Bức Họa Trên Tường

Mạch Long Ðàm, người Giang Tây, với hiếu liêm họ Chu đều là khách trọ ở kinh đô. Ngẫu nhiên cùng dạo chơi một cảnh chùa. Ðiện Phật, giải vũ, phòng tăng đều không lấy gì làm rộng rãi. Chỉ có một vì sư già trụ trì trong đó, thấy khách vào bèn xốc áo ra đón, rồi dẫn khách đi xem khắp đó đây. Trong điện có tô tượng Chí Công, hai bên tường đều vẽ vời rất tình xảo, nhân vật thảy đều như sống thật. Tường bên Ðông vễ bức” Thiên nữ rắc hoa”, ở trong có một thiếu nữ buông mái tóc thề, tay cầm bông hoa, miệng hé cười, đôi môi anh đào muốn nhấp nháy, làn sóng mắt dường như đung đưa.
0

THƯ SINH HỌ DIỆP – Bồ Tùng Linh


Miền Hoài Hương có chàng thư sinh họ Diệp, không rõ cả tên và tự. Văn chương từ phú trội nhất đương thời, nhưng đến đâu cũng lận đận, long đong khốn khổ mãi trong trường công danh.

Gặp lúc ông Ðinh Thừa Hạc, người Ðông Quan, đến làm quan ở ấp ấy, xem văn chương của chàng, cho là kỳ tài, bèn mời đến đàm đạo.

Ông rất bằng lòng, cho chàng đến ở trong dinh thự, cơm nước đèn sách, cấp cho đầy đủ, thỉnh thoảng lại gửi tiền thóc về giúp đỡ gia quyến nữa.

Ðến kỳ sơ thí, ông hết sức tán dương văn tài của chàng trước mặt quan học sử, rồi đó chàng đỗ đầu hàng xứ.

Ông trông mong vào chàng rất tha thiết; sau khi vào trường thi Hương, cho lấy văn của chàng để xem và đọc vừa gõ bàn đánh nhịp, ngợi khen không ngớt.

Ngờ đâu thời vận neo người, văn chương ghen mệnh, bảng đã treo, lại hỏng tuột.

Chàng trở về, choáng váng tê mê, trong lòng lại thẹn là mình đã phụ người tri kỷ, thân hình gầy ruộc như bộ xương còn đứng, người ngây ra như khúc gỗ.

Ông nghe tin, cho mời đến an ủi.

Chàng rơi lụy dầm dề.

Ông rất thương tình, hẹn đến khi nào mãn kỳ khảo tích về kinh thì đem chàng cùng đi.

Chàng rất cảm kích cáo từ ra về , từ đấy đóng cửa không đi đâu nữa.

Chẳng bao lâu chàng lâm bệnh, ông luôn luôn hỏi thăm và đưa quà, nhưng thuốc uống đã trăm thang mà vẫn không công hiệu. Vừa lúc ấy ông lại có điều xúc phạm đến quan trên, bị cất chức, sắp về nhà, viết thư cho chàng, đại lược nói rằng: “Tôi nay mai về Ðông, mà sở dĩ còn chần chừ chưa đi ngay, là chỉ vì muốn chờ túc hạ đi đó thôi. Túc hạ đến buổi sáng, thì buổi chiều là tôi khởi hành…”

Thư đưa đến bên giường nằm, chàng cầm xem khóc sụt sùi, rồi nhắn sứ giả về nói là đang bị bệnh nặng, khó bình phục ngay được, xin cứ đi trước.

Sứ giả về bẩm, ông không nỡ đi, ráng ở lại chờ.

Qua mấy hôm, người canh cổng báo có chàng họ Diệp đến, ông mừng quá, ra đón mà hỏi han.

Chàng nói:

– Vì cái bệnh của thân hèn để đại nhân phải chờ đợi lâu, lòng này thật áy náy không yên. Nay, may đã có thể ráng theo kịp dấu giày chân ngựa.

Ông bèn gói buộc hành trang lại, để dậy sớm ra đi.

Chẳng mấy ngày đã về đến làng, ông cho con thụ giáo với chàng, đêm ngày ở liền bên cạnh.

Cậu con tên là Tái Xương lúc bấy giờ mới mười sáu tuổi, chưa biết làm văn chương nhưng thông minh lắm, phàm văn bài cử nghiệp, xem qua hai ba lần thì không quên nữa. ở được một năm, cậu đã hạ bút thành văn, nhờ có thêm thế lực của ông, bèn được nhận vào nhà học của huyện.

Chàng bàn chép lại những bài văn cử nghiệp đã làm lúc bình thời đem hết cho công tử học.

Vào trường thi, bảy đầu đề không sai đề nào, công tử liền đậu á khôi.

Một hôm ông bảo chàng rằng:

– Túc hạ chỉ vứt ra một mối tơ thừa mà cũng đủ làm cho thằng trẻ nên đanh, nhưng còn quả chuông vàng kia cứ bị bỏ rơi mãi thì làm thế nào?

Chàng nói:

– Ðiều đó e rằng có mệnh. Tôi mượn cái phúc trạch của đại nhân để hà hơi cho văn chương, khiến người thiên hạ biết rằng nửa đời luân lạc không phải vì kém tài đánh trận, như thế là thỏa nguyện rồi. Vả chăng kẻ sĩ mà được một người biết, đã đủ không ân hận nữa, cần gì phải đỗ đạt mới đắc chí?

Ông thấy chàng xa nhà đã lâu, sợ nhỡ mất kỳ sát hạch năm, khuyên chàng nên về thăm nhà. Chàng rầu rĩ không vui. Ông cũng không nỡ ép, bèn dặn công tử khi đến kinh đô thì nạp thóc hộ chàng, công tử lại giật giải Nam Cung được bổ chức Chủ sự trong bộ, đem chàng vào Giám sớm tối gần nhau.

Qua một năm, chàng vào trường thi Hương ở kinh, đỗ Cử nhân.

Vừa lúc ông được bổ đi coi thi ở Hà Nam bàn nhân tiện nói với chàng rằng:

– Chuyến đi này không xa quê hương tiên sinh là mấy. Nay hãy nhẹ bước đường mây, tiên sinh cũng nên một phen về làng cho được khoái chí.

Chàng cũng mừng. Rồi chọn ngày tốt lên đường.

Ðến địa giới Hoài Dương, công tử cho người và ngựa đưa chàng về.

Ðến nhà thấy cổng ngõ tiêu điều, chàng chạnh lòng buồn bã lững thững đi vào sân.

Người vợ cầm nong nia đi ra, thấy chàng thì vứt xuống sợ hãi bỏ chạy.

Chàng rẫu rĩ mà nói:

– Ta bây giờ đã nên danh phận rồi. Mới ba bốn năm không thấy mặt, sao bông như không quen biết nhau vậy?

Người vợ đứng xa mà bảo rằng:

– Chàng chết đã lâu, còn nói nên danh nên phận gì nữa?

Sở dĩ còn để mãi linh cữu trong nhà, là vì nhà nghèo con bé đó mà thôi! Nay thằng cả đã khôn lớn, cũng đang tìm một ngôi đất để đưa chàng ra. Chớ nên hiện về làm gở để quấy người sống.

Chàng nghe nói thì bùi ngùi rũ rượi, bàn lững thững đi vào trong nhà, thấy linh cữu rành rành, liền ngã ra giữa đất mà biến mất.

Người vợ kinh hãi nhìn xuống thấy áo mũ giày tất bỏ đấy, như cái xác lột. Nàng mũi lòng quá, ôm xống áo khóc lóc. Người con đi học về, thấy một cỗ xe ngựa buộc ở trước thì dò hỏi xem ở đâu đến, rồi kinh hãi chạy về báo với mẹ.

Mẹ gạt nước mắt kể lại chuyện vừa xảy ra. Lại hỏi kỹ những người theo hầu mới biết rõ đầu đuôi.

Người theo hầu trở về, công tử nghe tin nước mắt rơi ướt cả ngực, lập tức lên xe, đến tận nhà mà khóc, rồi bỏ tiền lo liệu việc tang, chôn cất theo lệ hiếu liêm.

Lại chu cấp rất hậu cho đứa con, mời thầy về dạy và gửi gắm cho quan học sứ, hơn một năm sau được vào nhà học phán

Dịch Giả : Cao Xuân Huy
0

THƯ SINH HỌ DIỆP – Bồ Tùng Linh


Miền Hoài Hương có chàng thư sinh họ Diệp, không rõ cả tên và tự. Văn chương từ phú trội nhất đương thời, nhưng đến đâu cũng lận đận, long đong khốn khổ mãi trong trường công danh.

Gặp lúc ông Ðinh Thừa Hạc, người Ðông Quan, đến làm quan ở ấp ấy, xem văn chương của chàng, cho là kỳ tài, bèn mời đến đàm đạo.
0

ĐẠO SĨ NÚI LAO – Bồ Tùng Linh


Trong huyện có chàng họ Vương, vào hàng thứ bảy, là con nhà cố gia, tuổi trẻ mộ đạo.

Nghe nói núi Lao Sơn có nhiều tiên ở, liền quẩy tráp đi thăm.

Trèo lên một ngọn núi thấy có đạo quán thật u nhã.

Một vị đạo sĩ ngồi trên tấm bồ đoàn (chiếc chiếu đan bằng cỏ bồ, hình tròn, để người đi tu hành quỳ hoặc ngồi cho êm, mỗi khi hành lễ) tóc trắng rủ xuống tận cổ, nhưng dáng vẻ thư thái, tinh thần trông thật sắc sảo.

Vương liền khấu đầu, bắt chuyện, thấy đạo lý rất huyền diệu, bèn xin thờ làm thầy.

Ðạo Sĩ nói:

– Chỉ sợ quen nhàn rỗi, không chịu nổi khó nhọc thôi.

Vương hứa là: “Ðược”

Học trò Ðạo Sĩ đông lắm, gần tối mới kéo hết về.

Vương cùng họ cúi đầu làm lễ, rồi lưu lại trong quán.

Sáng tinh sương, Ðạo Sĩ gọi Vương, đưa cho cái búa, bảo theo đám học trò đi hái củi.

Vương kính cẩn vâng lời.

Ðược hơn một tháng, tay chân phồng rộp thành chai, cực khổ không chịu nổi, Vương đã ngầm có bụng muốn về.

Một buổi chiều, trở về, thấy hai người khách đang cùng thầy uống rượu.

Trời đã tối mà chưa thấy đèn lửa gì cả.

Thầy bèn cắt một miếng giấy như hình cái gương, dán lên vách.

Phút chốc, ánh trăng vằng vặc soi sáng khắp nhà, trông rõ từng sợi tơ, cái tóc.

Ðám học trò chạy quanh hầu hạ.

Một người khách nói:

– Ðêm này đẹp trời có thể vui chi, nên cho ai nấy cùng vui.

Bèn lấy hồ rượu lên bàn, chia cho các học trò, lại dặn nên uống thật say.

Vương nghĩ bụng: Bảy tám người một hồ rượu, làm sao cho đủ khắp được?

Mỗi người đều đi tìm chén, bát , tranh nhau rồi uống trước, chỉ sợ rượu trong hồ hết mất. Thế mà rót hết lần này lượt khác, vẫn chẳng vơi đi chút nào. Bụng thầm lấy làm lạ.

Giây lát, một vị khách nói:

– Ðã làm ơn ban cho ánh sáng trăng, mà lại chỉ tịch mịch uống suông. Sao không gọi Hằng Nga xuống chơi?

Ðạo sĩ bèn lấy một chiếc đũa, vứt vào trong trăng. Bỗng thấy một người đẹp từ trong vùng ánh sáng bước ra: mới đầu chưa đầy một thước, xuống đến đất thì cao lớn như người thường, lưng thon nhỏ, cổ trắng muốt, phấp phới múa khúc Nghê thường.

Rồi ca rằng:

Tiên tiên nào!

Về đây nao!

Giữ ta mãi chốn Quảng Hàn sao!

Âm thanh trong trẻo, cao vút, nghe hay như tiếng tiêu, tiếng sáo. Ca xong, uốn lượn mà đứng lên, rồi nhảy lên mặt bàn, ngoảnh đi ngoảnh lại, đã biến trở lại thành chiếc đũa.

Ba người cùng cười lớn.

Lại một vị khách nói:

– Ðêm nay vui quá, nhưng uống vẫn chưa đã. Có thể đãi rượu tiếp chúng tôi trên cung nguyệt được chăng?

Ba người bàn rời chiếu tiệc bước vào dần trong trăng.

Mọi người nhìn thấy rõ cả ba đang ngồi trong trăng uống rượu: râu, lông mày, đều trông thấy hết, như bóng hiện trong gương.

Một chốc, ánh trăng mờ dần; đám học trò châm đèn mang đến thì một mình Ðạo Sĩ còn ngồi đấy mà khách đã biến đâu mất.

Trên bàn thức nhắm hãy còn. Mà mặt trăng trên vách chỉ còn là miếng giấy tròn như tấm gương mà thôi.

Ðạo Sĩ hỏi:

– Mọi người đã uống đủ cả chưa?

Các học trò cùng thưa:

– Ðủ cả.

– Ðủ rồi thì nên đi ngủ sớm, đừng làm lỡ việc kiếm củi ngày mai.

Chúng học trò đều “vâng” mà lui ra.

Vương lòng thầm thích thú, hâm mộ, bụng muốn về lại tiêu tan.

Lại một tháng nữa, khổ không thể nào kham nổi, mà Ðạo Sĩ tuyệt không truyền dạy cho một phép nào.

Sốt ruột không chờ được nữa, Vương bèn lên cáo từ rằng:

– Ðệ tử này vượt mấy trăm dặm đường đến đây thụ nghiệp với thầy; dẫu chẳng học được cái thuật trường sinh bất tử, thì cũng mong thầy cho chút gì gọi là h tấm lòng cầu học. Thế mà qua hai ba tháng, chỉ những sáng đi kiếm củi, tối lại trở về.

Hồi còn ở nhà, đệ tử chưa bao giờ phi chịu khổ như thế.

Ðạo Sĩ cười bảo:

– Ta vẫn nói là anh không kham nổi khó nhọc, nay đã quả nhiên. Sáng mai, sẽ cho anh về:

Vương nói:

– Ðệ tử làm lụng đã bao ngày, xin thầy dạy qua cho một thuật mọn, khỏi phụ công lao đệ tử lặn tới tới đây.

Ðạo Sĩ hỏi:

– Muốn học thuật gì?

Vương đáp:

– Thường thấy thầy đi đâu, tường vách không ngăn được. Chỉ xin một phép cũng đủ.

Ðạo Sĩ cười nhận lời. Bèn đem một bí quyết truyền cho, bảo miệng đọc mấy câu thần chú xong rồi hô: “Vào đi!” Vương đối diện với một bức tường mà không dám vào.

Ðạo sĩ lại nói:

– Cứ vào thử đi!

Vương theo lời, thong thả tiến lại, đến tường thì bị vấp. Ðạo Sĩ bảo:

– Cúi đầu, vào cho nhanh, đừng lần chần!

Vương quả quyết, đứng cách tường mấy bước, lao nhanh tới. Gặp tường, cảm thấy trống không có vật gì cả.

Quay lại thì đã thấy mình ở bên kia tường rồi.

Vương mừng quá, vào lạy tạ.

Ðạo Sĩ bảo:

– Về nhà nên giữ mình đứng đắn, không thế thì phép không nghiệm nữa đâu.

Nói rồi cấp lộ phí cho mà về.

Ðến nhà, chàng khoe đã gặp tiên, tường vách dày đắn đâu cũng không ngăn được mình.

Vợ không tin.

Vương làm đúng như lời đạo sĩ đã dạy, đứng cách tường mấy bước, chạy ù vào. Ðầu đụng phải tường cứng, bỗng ngã lăn đùng.

Vợ Vương đỡ dậy, nhìn xem, thấy trán đã sưng lên như một quả trứng lớn.

Vợ Vương đưa ngón tay lêu lêu, diễu cho.

Vương vừa thẹn vừa ức, chỉ biết chửi lão Ðạo Sĩ bất lương mà thôi.

Liêu trai chí dị, Nguyên Tác : Bồ Tùng Linh
Dịch Giả : Nguyễn Ðức Lân
0

ĐẠO SĨ NÚI LAO – Bồ Tùng Linh


Trong huyện có chàng họ Vương, vào hàng thứ bảy, là con nhà cố gia, tuổi trẻ mộ đạo.

Nghe nói núi Lao Sơn có nhiều tiên ở, liền quẩy tráp đi thăm.

Trèo lên một ngọn núi thấy có đạo quán thật u nhã.

Một vị đạo sĩ ngồi trên tấm bồ đoàn (chiếc chiếu đan bằng cỏ bồ, hình tròn, để người đi tu hành quỳ hoặc ngồi cho êm, mỗi khi hành lễ) tóc trắng rủ xuống tận cổ, nhưng dáng vẻ thư thái, tinh thần trông thật sắc sảo.

Vương liền khấu đầu, bắt chuyện, thấy đạo lý rất huyền diệu, bèn xin thờ làm thầy.
0

Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng - Lý Bạch


. Lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng

Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng

Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu,
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu.
Cô phàm viễn ảnh bích không tận,
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.


Dịch nghĩa

Bạn cũ từ biệt tại lầu Hoàng Hạc đi về phía tây,
Tháng ba hoa khói, xuống Dương Châu.
Bóng chiếc buồm đơn màu xanh mất hút,
Chỉ thấy Trường Giang vẫn chảy bên trời.


(Năm 726)

Hoàng Hạc lâu ở tây nam huyện Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc. Quảng Lăng nay thuộc huyện Giang Đô, tỉnh Giang Tô.

Bài thơ này được sử dụng trong các chương trình SGK Văn học 10 giai đoạn 1990-2006, SGK Ngữ văn 10 giai đoạn từ 2007.

Bản dịch của Trần Trọng San

Bạn cũ dời chân Hoàng Hạc lâu
Tháng ba hoa khói xuống Dương Châu
Bóng buồm chìm lẫn trong trời biếc
Chỉ thấy Trường Giang vẫn chảy mau

Bản dịch của Trần Trọng Kim

Phía tây bạn biệt Hạc lâu
Tháng ba trẩy xuống Dương Châu thuận dòng
Cánh buồm bóng hút màu không
Trông xa trắng xoá nước sông bên trời


Nguồn: Trần Trọng Kim, Đường thi, NXB Văn hoá thông tin, 1995

Bản dịch của Khương Hữu Dụng

Hoàng Hạc lầu xưa bạn cũ rời
Dương Châu hoa khói tháng ba xuôi
Buồm đơn bóng hút vào xanh biếc
Chỉ thấy Trường Giang chảy cuối trời

Bản dịch của Ngô Tất Tố

Bạn từ lầu Hạc lên đường
Giữa mùa hoa khói châu Dương xuôi dòng
Bóng buồm đã khuất bầu không
Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời

Bản dịch của Nguyễn Kỷ Niệm

Bạn cũ rời tây Hoàng Hạc lâu,
Tháng ba hoa khói, xuống Dương Châu.
Buồm đơn, bóng lẫn vào mây biếc,
Chỉ thấy Trường Giang xuôi mãi đâu...

Bản dịch của (Không rõ)

Giã lầu Hoàng Hạc bạn lìa ta
Hoa khói Dương thành tiết tháng ba
Thăm thẳm không gian buồm một cánh
Trường giang nước chảy tới trời xa...

Bản dịch của Hải Đà

Giã từ Hoàng Hạc bạn về tây
Cảnh tiết thành Dương hoa khói bay
Nhòa nhạt trời xanh buồm khuất bóng
Trường Giang cuồn cuộn tận chân mây.

Bản dịch của Nam Long

Bạn rời từ tây Hoàng Hạc lâu,
Tháng ba sương khói đến Dương Châu.
Buồm đơn hút bóng giữa trời biếc,
Duy thấy Trường Giang cuồn cuộn mau.

Bản dịch của Túc Mỡ

Hoàng Hạc hướng tây tiễn bạn già
Tháng ba hoa khói Dương Châu xa
Buồm côi dần mất chân trời biếc
Chỉ thấy Trường Giang nước chảy qua

Bản dịch của Cao Tự Thanh

Lầu Hạc về tây tiễn biệt nhau,
Tháng ba hoa khói xuống Dương Châu.
Buồm côi lẩn bóng vào không biếc.
Chỉ thấy Trường Giang sóng trắng màu.

Bản dịch của Ngô Tất Tố

Bạn từ lầu Hạc ra đi
Dương Châu hoa khói đương kỳ tháng ba
Xanh mờ ngập cánh buồm xa
Trường Giang hút thẳm trôi qua lòng trời

0

Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng - Lý Bạch


. Lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng

Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng

Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu,
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu.
Cô phàm viễn ảnh bích không tận,
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.
0

Tĩnh dạ tứ - Thơ Lý Bạch


Tĩnh dạ tứ

Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.

Dịch nghĩa

Đầu tường trăng sáng soi,
Ngỡ là sương trên mặt đất.
Ngẩng đầu nhìn vầng trăng sáng,
Cúi đầu lại thấy nhớ quê nhà.

Thuở nhỏ, Lý Bạch thường lên đỉnh núi Nga Mi ở quê nhà ngắm trăng. Từ năm 25 tuổi, ông đã xa quê và xa mãi. Bởi vậy, cứ mỗi lần thấy trăng là nhà thơ lại nhớ tới quê nhà.

Bản dịch của Nam Trân

Đầu giường ánh trăng rọi,
Mặt đất như phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.

Nguồn: Thơ Đường (tập II), NXB Văn học, 1987

Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu

Trông trăng dọi trước giường
Những ngỡ đất mù sương
Ngẩng đầu nhìn trăng tỏ
Cúi đầu nhớ cố hương

Nguồn: Đường thi tuyển dịch, NXB Thuận Hoá, 1997

Bản dịch của Hải Đà

Đầu giường trăng tỏ rạng
Đất trắng ngỡ như sương
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương.

Bản dịch của Lão Nông

Đêm nay trăng sáng rọi đầu giường
Mặt đất hình như phủ kín sương?
Ngẩng mặt nhìn trời, trăng sáng quá
Cúi đầu suy ngẫm nhớ quê hương

Bản dịch của Túc Mỡ

Ðầu giường vầng trăng gác
Trên đất phủ màn sương
Ngẩng lên nhìn trăng tỏ
Gục xuống nhớ quê hương

Bản dịch của Trúc Khê

Đầu giường ngó bóng trăng soi
Mơ màng ngỡ đám sương rơi mặt đường
Ngẩng đầu trăng sáng như gương
Cúi đầu sao nhớ quê hương ngàn trùng

Bản dịch của Hoàng Giáp Tôn

Ánh trăng sáng đầu giường
Ngỡ mặt đất đầy sương
Ngẩng đầu trông trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương!

0

Tĩnh dạ tứ - Thơ Lý Bạch


Tĩnh dạ tứ

Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.
0

BÀNH HẢI THU – Bồ Tùng Linh

Nho sinh ở Lai Châu, là Bành Hiếu Cồ, học ở cơ ngơi khác cách nhà khá xa. Trung thu không về kịp, một mình hiu quạnh, nghĩ trong thôn chẳng có ai trò chuyện được. Chỉ có chàng thư sinh họ Khâu là danh sĩ trong huyện, nhưng vốn có tật kín, Bành thường khinh bỉ.

Trăng lên, càng thấy buồn tênh, cực chẳng đã đành viết thiếp mời Khâu. Rượu nửa chừng, có một người gõ cửa lạch cạch, tiểu đồng chạy ra xem thì là một thư sinh muốn yết kiến chủ nhân. Bành đứng lên cung kính mời khách vào. Vái chào xong, cùng ngồi quanh chiếu rượu, hỏi họ hàng quê quán, khách đáp:
– Tiểu sinh người Quảng Lăng, cùng họ với ngài, tên chữ là Hải Thu. Gặp đêm trăng đẹp thế này, ở nhà trọ càng buồn khổ. Nghe tiếng ngài là bậc cao nhã, bèn đường đột yết kiến.
Nhìn xem, người ấy áo vải mà sạch sẽ chỉnh tề, nói cười phong lưu. Bành mừng lắm nói:
– Vậy ra là người đồng tông với tôi. Ðêm nay là cái đêm gì mà gặp được khách quý thế này
Liền sai rót rượu, khoản đãi như bạn thân từ trước. Xem, khách dường như cũng rất khinh Khâu, Khâu ngẩng lên bắt chuyện, thì ngạo mạn không đáp lễ. Bành thẹn thay cho Khâu, bèn đánh lảng câu chuyện, xin hát trước một khúc dân ca cho vui. Rồi ngửa mặt dặng hắng lần nữa, hát khúc Hào Sĩ Phù Phong, cùng nhau vui cưới.
Khách nói:
– Tiểu sinh không biết hát, không lấy gì đáp lại khúc dương xuân của ngài. Xin nhờ người hát thay được chăng?
Bành đáp:
– Xin vâng.
Khách hỏi:
– Ở thành Lai Châu này có danh kỹ nào không?
Bành trả lời:
– Không có.
Khách nín lặng hồi lâu rồi bảo tiểu đồng:
– Ta vừa gọi một người đến ở ngoài cửa, hãy ra dẫn vào đây!
Tiểu đồng đi ra, quả thấy một cô gái đang loanh quanh ngoài cửa. Nàng khoảng đôi tám, xinh đẹp như tiên. Bành ngạc nhiên hết sức, kéo nàng cùng ngồi. Cô gái mặc áo màu lá liễu, choàng khăn màu vàng, hương thơm sực nức bốn bên.
Khách an ủi:
– Lặn lội ngàn dặm tới đây, thật phiền nàng quá!
Cô gái mỉm cười vâng dạ. Bành lấy làm lạ, gạn hỏi, khách đáp:
– Quê quán khổ nỗi không có giai nhân, tiểu nhân vừa phải gọi cô này trên thuyền ở Tây Hồ đến đây.
Ðoạn bảo nàng:
– Khúc Chàng Bạc Tình cô vừa hát ở trên thuyền hay lắm, xin hát lại lần nữa.
Cô gái hát rằng:

Chàng bạc tình,
Tắm ngựa ao xuân nọ,
Tiếng người xa,
Tiếng ngựa bỏ.
Trời sông cao,
Trăng núi nhỏ,
Ngoảnh đầu đi không về,
Trong sân trời rạng tỏ.
Chẳng oán xa nhau nhiều,
Sầu hội vui ít có,
Ngủ nơi nao?
Ðừng như bông theo gió.
Cho dù chẳng phong hầu,
Chớ về Lâm Cùng đó!

Khách lấy cây sáo ngọc dắt trong tất ra hoà theo tiếng hát, hết khúc thì sáo cũng dừng.

Bành sửng sốt khen mãi không thôi, rồi hỏi:
– Từ Tây Hồ đến đây đâu chỉ ngàn dặm? Thế mà trong phút chốc vời đến được, chẳng là tiên hay sao?
Khách đáp:
– Ðâu dám nói đến tiên, nhưng có thể coi muôn dặm gần như ngoài cửa. Ðêm nay trăng gió trên Tây Hồ đẹp hơn mọi khi nhiều, không lẽ không đến xem một chuyến? Ngài theo chơi được chăng?
Bành đang để tâm xem sự lạ liền nhận lời đáp:
– Rất hân hạnh.
Khách hỏi:
– Ngài đi thuyền hay cưỡi ngựa?
Bành nghĩ ngồi thuyền nhàn nhã hơn bàn nói:
– Xin cho đi thuyền.
Khách bảo:
– Nơi đây gọi thuyền hơi xa, trên sông Ngân hẳn có người chở đò.
Bèn giơ tay vẫy lên không, gọi:
– Thuyền ơi! thuyền xuống đây! Bọn tôi muốn đến Tây Hồ, không sẳn tiền thưởng đâu.
Lát sau, một chiếc thuyền hoa từ trên không lướt xuống, khói mây quấn quýt. Họ cùng lên thuyền. Thấy một người cầm bơi chèo ngắn, đoạn cuối gài kín lông chim dài, hình dáng như cái quạt lông, phẩy một cái là gió mát vi vu. Thuyền dần dần lên tít mây xanh, nhằm hướng Nam lướt tới, vùn vụt như tên.
Khoảnh khắc thuyền đã hạ xuống nước. Chỉ nghe sáo đàn rộn rã, chiêng trống vang lừng. Ra khỏi khoang nhìn, trăng in khói sóng, thuyền chơi họp chợ, người lái buông chèo, mặc thuyền tự trôi. Nhìn kỹ, quả là Tây Hồ thật.
Khách lấy ra từ sau khoang món nhắm lạ và rượu ngon, vui vẻ đối ẩm. Lát sau, một chiếc thuyền lầu tới gần rồi đi sát ngay bên cạnh. Nhòm qua song cửa thấy trong thuyền có hai người đang cười rộ bên bàn cờ.
Khách đưa chén rượu mời cô gái, nói:
– Cạn chén, rồi đưa cô về.
Trong lúc cô gái nâng chén, Bành bịn rịn bồi hồi, chỉ sợ nàng đi mất, bàn lấy chân bấm khẽ. Nàng đưa mắt liếc ngang, Bành càng xao xuyến, xin hẹn ngày gặp lại.
Cô gái nói:
– Nếu chàng có lòng thương, cứ hỏi tên Quyên Nương là ai cũng biết.
Khách lấy ngay khăn lụa của bành trao cho nàng, bảo:
– Tôi thay ông ấy đính ước lời hẹn ba năm sau.
Ðoạn khách đứng lên, đặt cô gái trên lòng bàn tay nói:
– Tiên chăng! tiên chăng!
Rồi kéo cửa sổ thuyền bên, bỏ cô gái sang. Mắt cửa chỉ bằng cái đĩa nàng ép mình trườn vào, không cảm thấy bị chật hẹp chút nào. Lát sau nghe thuyền bên có tiếng nói:
– Quyên Nương tỉnh rồi!
Tức thì thuyền ấy chèo đi ngay. Xa trông thuyền nọ đã ghé bến, người dưới thuyền kéo cả lên bờ, Bành bỗng mất hứng chơi, bèn nói với khách muốn lên bờ cùng xem qua đây đó. Vừa mới thương lượng, thuyền đã tự cập bờ, nhân đó bỏ thuyền lên bộ dạo quanh chừng hơn một dặm. Khách đến sau, dắt một con ngựa, bảo Bành giữ lấy. Rồi khách lại đi ngay, dặn rằng:
– Ðợi tôi mượn thêm hai con ngựa nữa.
Mãi không thấy khách đến, đường đã vắng người, ngìng trông trăng đã xế về Tây, trời đã sắp rạng. Khâu cũng không biết đi đường nào. Bành dắt con ngựa tới lui, không biết nên đi hay ở. Khi giong cương cho ngựa tới nơi đậu thuyền thì cả người lẫn thuyền đều chẳng thấy đâu. Bành nghĩ lưng túi rỗng không, càng thêm lo sợ. Trời đã sáng rõ, thấy trên mình ngựa có một túi nhỏ, thò tay xem, được ba bốn lạng bạc, bèn mua thức ăn rồi cứ đợi, bất giác gần trưa. Bành tính chi bằng hỏi thăm Quyên Nương dần dà sẽ hỏi được tin Khâu nhưng khi hỏi đến tên Quyên Nương thì chẳng một ai biết cả. Bành cụt hứng buồn tênh, hôm sau lên đường. Ngựa chạy tốt, may không liệt nhược, nửa tháng về tới nhà.
Lúc ba người cưỡi thuyền bay lên, tiểu đồng về báo:
– Ông chủ đã lên tiên rồi!
Cả nhà đau buồn khóc lóc, nghĩ rằng không về nữa. Bành về tới nhà, buộc ngựa bước vào, người nhà sửng sốt mừng rỡ, xúm lại hỏi han, bấy giờ Bành mới kể hết những sự lạ. Nhân nghĩ chỉ một mình về quê quán, e bên nhà Khâu nghe tin sẽ đến gạn hỏi, bèn răn người nhà chớ nói rộng ra. Trong lúc chuyện trò, Bành kể đến lai lịch con ngựa. Mọi người nghe nói của tiên cho bàn kéo cả ra chuồng xem. Tới nơi chẳng thấy ngựa đâu, chỉ thấy chàng Khâu bị buộc cạnh chuồng ngựa bằng giây cương cỏ. Ai nấy kinh hãi quá sức, gọi Bành đến xem. Thấy Khâu gục đầu dưới máng cỏ, mặt mày xám ngắt, hỏi không nói, duy hai mắt lúc nhắm lúc mở mà thôi. Bành thấy bất nhẫn quá,sai người cởi giây cương vực lên giường.
Khâu như người mất hồn, đổ nước cháo nóng cho, nuốt được chút ít, giữa đêm hơi tỉnh vội đòi ra nhà tiêu. Xốc nách nách đưa đi. Khâu xón ra được mấy cục phân ngựa. Lại cho ăn uống tí chút, bấy giờ mới nói được, Bành đến bên giường hỏi han, Khâu kể:
– Sau khi rời thuyền, hắn dẫn tôi đi nói chuyện phiếm. Ðến chỗ vắng, hắn vỗ đùa vào gáy, tôi liền mê mẩn ngã lăn ra. Nằm phục giây lát, nhìn lại thấy mình đã hoá ngựa. Tâm trí vẫn tỉnh táo nhưng không nói được. Thật là chuyện vô cùng nhục nhã, không sao nói với vợ con được. Xin bác chớ tiết lộ.
Bành nhận lời, sai người hầu thắng ngựa đưa Khâu về.
Từ đấy Bành không sao quyên được Quyên Nương. Ba năm sau, vì có người anh rể làm chức quan Phán ở Dương Châu, Bành nhân đến thăm. Châu này có Lương công tử là chỗ thân quen với Bành, mở tiệc mời chàng đến uống rượu. Trong tiệc có mấy đào hát đều đến vái chào. Công tử hỏi đến Quyên Nương, người nhà thưa là bị ốm.

Công tử giận dữ nói:
– Con tiện tỳ cao ngạo thanh giá, hãy mang thừng trói đem đến đây!
Bành nghe đến tên Quyên Nương, giật mình hỏi là ai. Công tử đáp:
– Nó là con hát số một ở Quảng Lăng. Cậy có chút tiếng tăm mới dám kiêu căng vô lễ.
Bành ngờ tên họ ngẫu nhiên trùng nhau, nhưng lòng vẫn xúc động hồi hộp, chỉ mong được thấy mặt ngay. Lát sau, Quyên Nương đến, công tử hầm hầm kể tội.

Bành nhìn kỹ, quả là người đã gặp trong tiết trung thu, bèn thưa với công tử:
– Cô này là chỗ tôi quen biết cũ, mong ông tha thứ
Quyên Nương đưa mắt ngắm Bành, dường như cũng ngạc nhiên.

Công tử chưa vội hỏi kỹ đã sai người mời rượu. Bành hỏi:
– Khúc Chàng Bạc Tình nàng còn nhớ chăng?
Quyên Nương càng kinh hãi, chăm chú nhìn Bành rồi mới hát khúc xưa. Lắng nghe, đúng là tiếng hát đêm trung thu năm ấy.
Rượu tàn, công tử sai nàng chăn gối hầu khách. Bành nắm lấy tay nàng hỏi:
– Lời hẹn ba năm hôm nay mới thực hiện được chăng?
Quyên Nương đáp:
– Năm xưa theo người đi chơi thuyền Tây Hồ, em uống chưa được mấy chén đã như say. Trong lúc choáng váng bị một người nhấc đem đến một thôn nọ. Một tiểu đồng dẫn em vào nhà trên chiếu rượu có ba người, chàng là một trong số đó. Sau lại đi thuyền đến Tây Hồ , người ta mới đưa em về thuyền cũ qua mắt cửa sổ. Mỗi khi nhớ lại lúc cầm tay ân cần, cứ bảo là mộng ảo. Nhưng khăn lụa còn đây, em vẫn gói kỹ cất đi.
Bành kể nguyên do rồi cùng nhau than thở. Quyên Nương ngả mình vào lòng Bành, nức nở nói:
– Tiên đã làm mối, xin chàng đừng cho em là kẻ phong trần đáng vứt bỏ mà thôi không nghĩ đến người đang ở trong bể khổ này.
Bành đáp:
– Lời hẹn trên thuyền chưa ngày nào tôi lãng quên.

Sáng hôm sau, thưa chuyện với công tử, lại vay mượn quan Biệt giá ngàn vàng, xoá sổ cho nàng rồi đưa nhau về quê. Tình cờ đến cơ ngơi nọ, nàng vẫn nhận ra nơi uống rượu năm nào.

BỒ TÙNG LINH
0

BÀNH HẢI THU – Bồ Tùng Linh

Nho sinh ở Lai Châu, là Bành Hiếu Cồ, học ở cơ ngơi khác cách nhà khá xa. Trung thu không về kịp, một mình hiu quạnh, nghĩ trong thôn chẳng có ai trò chuyện được. Chỉ có chàng thư sinh họ Khâu là danh sĩ trong huyện, nhưng vốn có tật kín, Bành thường khinh bỉ.

Trăng lên, càng thấy buồn tênh, cực chẳng đã đành viết thiếp mời Khâu. Rượu nửa chừng, có một người gõ cửa lạch cạch, tiểu đồng chạy ra xem thì là một thư sinh muốn yết kiến chủ nhân. Bành đứng lên cung kính mời khách vào. Vái chào xong, cùng ngồi quanh chiếu rượu, hỏi họ hàng quê quán, khách đáp:
0

HỒNG NGỌC – Bồ Tùng Linh


Ông cụ họ Phùng người Quảng Bình có một con trai tên chữ là Tương Như. Hai bố con cùng là Chư sinh. Ông Phùng tuổi gần sáu mươi, tính ương ngạnh mà nhà vẫn thiếu thốn. Trong khoảng vài năm, vợ và con dâu lại cùng mất cả, việc cơm nước đều phải tự làm lấy.

Một đêm, Tương Như ngồi dưới bóng trăng, chợt thấy người con gái láng giềng từ bên kia tường nhòm sang. Chàng nhìn thấy đẹp, đến gần thấy hé cười, lấy tay vẫy, không đến, cũng không di, cố nài mãi mới trèo thang sang. Liền ăn nằm với nhau. Hỏi họ tên, cô gái nói:

– Thiếp là con gái nhà láng giềng, tên là Hồng Ngọc.

Chàng rất yêu, xin cùng nàng tính chuyện lâu dài. Cô gái nhận lời. Từ đấy, đêm đêm thường đi lại, được độ nửa năm. Một đêm, ông Phùng thức dậy, nghe có tiếng con gái cười nói, nhòm vào gian nhà của con thì nhìn thấy cô gái. Giận lắm, gọi chàng ra mắng:

– Ðồ súc sinh, làm cái trò gì thế? Cửa nhà sa sút như thế, còn không biết chịu khó gìn giữ, lại còn học thói đàng điếm ư? Người ta biết ra thì phẩm hạnh của mày còn ra gì nữa! Dẫu người ta không biết thì tuổi thọ của mày cũng giảm.

Chàng quỳ xuống nhận lỗi, khóc xin hối cải. Ông cụ mắng cô gái:

– Con gái không biết giữ phép buồng khuê, đã nhuốc mình lại làm nhuốc cả người. Nếu việc vỡ lở ra, hẳn không chỉ một mình nhà này xấu hổ.

Mắng xong, bực tức trở về nhà ngủ. Cô gái chảy nước mắt nói:

– Lời bố quở trách thật là thẹn nhục! Duyên phận hai ta thôi thế là hết.

Chàng nói:

– Còn cha, con không được tự quyết định. Nếu nàng còn có tình, thời nên cố gắng ngậm tủi làm lành.

Cô gái muốn quyết tuyệt. Chàng nghe, sa nước mắt. Cô gái lại khuyên giải, nói:

– Thiếp với chàng không có lời của mối lái, không có lệnh của cha mẹ, chỉ là trèo tường chui gạch mà theo nhau, thì sao có thể cùng nhau đầu bạc được? Vùng này có một người tốt đôi với chàng, có thể hỏi làm vợ.

Chàng phàn nàn nhà nghèo, cô gái nói:

– Tối mai xin đợi, tôi sẽ mưu tính cho.

Ðêm hôm sau, cô gái quả nhiên đến, bỏ bốn mươi lạng bạc ra tặng chàng, nói rằng:

– Cách đây sáu mươi dặm, ở thôn Ngô có người con gái họ Vệ, tuổi đã mười tám, còn cao giá nên chưa ai lấy; chàng đưa nhiều tiền thì ắt phải xong việc.

Nói xong, từ biệt mà đi. Chàng tựa lúc thuận tiện, thưa với bố, muốn xin đi xem mặt, nhưng câu chuyện số tiền thì giấu đi, không dám nói cho bố biết. Ông Phùng tự lượng nhà nghèo, lấy cớ đó gạt đi. Chàng lại tìm lời ôn tồn nói với bố cứ thử đến xem cho biết thôi. Ông cụ gật đầu.

Chàng bèn thuê đầy tớ và người ngựa đi đến nhà họ Vệ. Vệ vốn là người làm ruộng. Chàng gọi ra ngoài nói chuyện riêng. Vệ biết chàng là con nhà dòng, lại thấy dáng vẻ đàng hoàng, trong bụng đã bằng lòng, nhưng còn ngại chàng kỳ kèo tiền nong chăng.

Chàng nghe ông cụ nói ngập ngừng, đã biết , bàn dốc tiền trong túi ra, bày trên bàn. Vệ mừng, nhờ người học trò bên láng giềng đứng giữa, viết tờ giấy đỏ mà giao ước với nhau. Chàng vào nhà chào lạy cụ, thấy nhà cũng chật hẹp, cô gái đứng nấp sau mẹ. Chàng đưa mắt nhìn, tuy ăn mặc xuềnh xoàng mà thần sắc tinh anh rực rỡ, bụng mừng thầm. Vệ mượn tạm nhà bên để tiếp đãi chàng rể và nói:

– Công tử không cần đón dâu, đợi may được ít quần áo sẽ đưa đến tận nơi

Chàng liền hẹn ngày rồi về, nói dối với bố rằng:

– Họ Vệ mến nhà ta dòng dõi thanh bạch nên không đòi tiền.

Ông cụ cũng mừng.

Ðến ngày hẹn, Vệ quả đưa cô gái đến. Cô gái siêng năng dè sẻn, lại thuần tục nết na, tình nghĩa vợ chồng thật là thắm thiết. Hơn hai năm sau, sinh được một con trai, đặt tên là Phúc Nhi.

Nhân ngày tết Thanh Minh, bố con đi thăm mộ, gặp kẻ thân hào trong huyện họ Tống. Tống nguyên làm quan Ngự Sử trong triều, phạm tội tham tang, phải cách chức về làng, những vẫn giương oai hà hiếp người. Hôm đó cũng đi thăm mộ về, thấy cô gái cho là đẹp, hỏi người trong thôn biết là vợ chàng. Nghĩ Phùng là học trò nghèo, đem nhiều của ra dụ dỗ, có thể làm cho đổi lòng. Liền sai người bắn tin cho chàng. Chàng nghe thấy, giận hiện ra mặt, rồi lại nghĩ thế không địch nổi với Tống, bàn nén giận làm vẻ tươi cười, về nói với bố. Ông Phùng giận lắm, chạy ra trước mặt người nhà họ Tống, trỏ trời vạch đất mắng nhiếc tàn tệ. Tên người nhà ôm đầu lủi đi mất. Họ Tống cũng tức giận, sai mấy đứa xông vào nhà chàng, đánh cả bố lẫn con, làm sôi sùng sục. Cô gái nghe thấy, bỏ con xuống giường, xoã tóc chạy ra kêu cứu. Chúng bèn cướp lấy, khiêng lên rồi ầm ầm kéo đi. Hai bố con bị đánh sụm, rên rĩ trên đất; đứa bé khóc oe oe trong nhà. Hàng xóm láng giềng cùng thương hại, xóc đỡ đặt lên giường. Qua ngày sau, chàng chống gậy mới đứng lên được, còn ông cụ thì tức giận không ăn rồi thổ huyết mà chết.

Chàng lăn khóc, ẵm con đi kiện Ðốc Phủ. Kiện hầu khắp mọi nơi, rút cục vẫn không thắng, sau lại nghe nói vợ không chịu khuất phục mà chết, lại càng đau xót. Khí oan đầy bụng, không lối nào giãi bày được. Thường nghĩ muốn đón đường đâm Tống chết, nhưng lo đầy tớ nó đông, con nhỏ, lại không gửi được. Ngày đêm buồn bã nghĩ ngợi, hai mắt không chớp nổi.

Chợt có một người đàn ông đến viếng nhà, râu quăn, hàm bạnh, xưa nay chưa từng quen. Chàng mời ngồi, toan hỏi họ tên quê quán, khách đã vội nói trước:

– Ông có cái thù người ta giết mất bố, cướp mất vợ mà không báo ư?

Chàng ngỡ là người của Tống sai đến dò hỏi, nên chỉ trả lời ậm ừ cho xong. Khách giận, mắt trợn tròn muốn rách khóe, liền bước ra nói:

– Tôi tưởng anh là người, nay mới biết anh là thằng hèn không đáng đếm xỉa.

Chàng xét thấy có cái gì là lạ, liền quỳ xuống, kéo áo khóc nói rằng:

– Thực ra vì sợ là người nhà họ Tống đến dò la, nay xin giãi bày hết tâm can. Cái điều nằm gai nắm mật của tôi, kể đã nhiều ngày rồi vậy; chỉ thương hòn máu trong bọc này, sợ rồi tuyệt tự mất. Ngài là bậc nghĩa sĩ, liệu có thể vì tôi mà làm chàng Chữ Cu được chăng?

Khách nói:

– Ðó là việc của đàn bà con gái, tôi không làm được. Cái việc ông muốn nhờ người, xin hãy tự làm lấy, còn cái việc ông muốn tự làm thì tôi xin làm thay cho.

Chàng nghe nói, đập đầu xuống đất. Khách chẳng thèm ngoái lại, bỏ đi ra. Chàng chạy theo hỏi họ tên, đáp rằng:

– Việc không xong, không oán; việc xong không nhận ơn.

Rồi đi liền.

Chàng sợ vạ đến mình, ẵm con đi trốn.

Ðến đêm, cả nhà họ Tống đang ngủ, có người vượt qua mấy lần tường, giết ba cha con nhà Ngự Sử với một thị tì, một con dâu. Nhà họ Tống làm tờ trạng cáo quan, quan rất kinh hãi. Tống cố vu cho Tương Như. Vì thế quan cho lính đi bắt chàng. Chàng trốn không ai biết là đi đâu, vì thế càng cho là thật. Ðầy tớ nhà họ Tống cùng với nhà quan đi lùng khắp nơi, đêm đến núi Nam Sơn, nghe có tiếng trẻ khóc, lần tìm ra được, liền trói mang về. Ðứa bé càng khóc dữ, chúng liền giật lấy vứt đi. Chàng oan ức muốn chết. Khi gặp quan lệnh ở huyện, quan hỏi tại sao giết người? Chàng thưa:

– Thực là oan! Nhà họ Tống chết về đêm, tôi ra đi từ ban ngày; vả lại ẵm đứa nhỏ khóc oe oe như vậy thì leo tường giết người sao được?

Quan lệnh nói:

– Không giết người sao lại đào tẩu?

Chàng đuối lý, không biện bạch được nữa. Liền giam vào ngục. Chàng khóc nói rằng:

– Tôi chết cũng không tiếc nhưng đứa bé mồ côi kia có tội tình gì?

Quan lệnh nói:

– Mày giết con người ta đã nhiều, thì giết con mày còn oán gì nữa?

Chàng bị lốt áo mũ nho sinh lại bị cùm kẹp, đánh đập khổ sở nhưng cung không xưng nhận điều gì.

Quan lệnh đêm hôm ấy nằm ngủ bỗng nghe có vật gì cắm phập vào giường, kêu bần bật thành tiếng, sợ quá kêu lên. Cả nhà giật mình thức dậy, xúm lại đốt đuốc soi, thấy một con dao ngắn lưỡi sắc nhọn sáng loáng, găm vào giường, sâu xuống gỗ đến hơn một tấc, chặt cứng không thể rút ra được. Quan lệnh trông thấy, sợ hết hồn vía, cho người cầm giáo đi lùng khắp nơi cũng không thấy tung tích gì cả. Bụng cũng nản, lại nghĩ: người nhà họ Tống đã chết rồi, không có gì phải kiềng họ nữa, bèn trình bẩm lên quan trên để giải oan cho chàng rồi tha về.

Chàng về đến nhà, trong hũ không còn một đấu gạo,một mình một bóng ngồi trông bốn bức tường mà thôi. May được nhà hàng xóm thương xót cho ăn uống, tạm bợ sống qua ngày. Nghĩ đến cái thù lớn đã trả được thì mừng đến tươi tỉnh lại; nhưng nghĩ đến cái hoạ thảm khốc, suýt nữa chết cả một nhà thì nước mắt lại đầm đìa sa xuống; lại nghĩ nửa đời nghèo xác dòng dõi không ai nối, thì ở nơi vắng người bỗng khóc rống lên, khản cả tiếng không tự nén giữ được.

Như thế chừng nửa năm, việc bắt bớ cũng nhạt dần, bèn kêu xin với quan huyện được mang hài cốt họ Vệ về. Chôn cất xong, đau xót muốn chết. Một mình trằn trọc trên giường, nghĩ không còn cách gì để sống.

Bỗng có người gõ cửa, chàng chú lắng nghe, thấy ngoài cửa có tiếng một người đang nói chuyện với trẻ con. Chàng vội dậy, dòm xem thì hình như một người con gái. Cánh cửa vừa mở, liền hỏi:

– Cái oan lớn đã được rửa, may không việc gì chứ?

Tiếng nói nghe quen lắm,mà trong lúc thảng thốt không thể nhớ được. Ðánh lửa soi thì ra Hồng Ngọc, dắt một đứa nhỏ cười đùa ở dưới đầu gối. Chàng chẳng kịp hỏi, ôm lấy cô gái mà khóc oà. Cô gái cũng thảm đạm lắm. Rồi đẩy đứa bé mà nói:

– Mày quên bố mày rồi ư?

Ðứa bé nắm lấy áo cô gái, mắt chòng chọc nhìn chàng. Chàng nhìn kỹ thì ra Phúc Nhi. Giật mình kinh hãi, khóc mà nói rằng:

– Sao con lại về đây được?

Cô gái nói:

– Nói thực với chàng, trước kia thiếp nói là con gái bên láng giềng là nói dối đấy, thiếp thực là hồ. Nhân đi đêm thấy tiếng trẻ khóc trong hang, liền bế về nuôi ở Tần. Nghe nạn lớn đã yên nên đem con về cùng chàng đoàn tụ.

Chàng gạt nước mắt lạy tạ. Ðứa bé ngồi trong lòng cô gái y như nương tựa vào mẹ đẻ, thật không nhận ra bố nữa. Trời chưa sáng, cô gái đã trở dậy. Hỏi thì đáp:

– Kẻ hèn mọn này muốn đi đây.

Chàng chưa mặc áo, quỳ ở đầu giường, khóc không ngẩng mặt lên được nữa. Cô gái cười nói rằng:

– Thiếp nói dối chàng đấy. Nay nhà đương gây dựng lại, không thức khuya dậy sớm sao được?

Rồi phát cỏ, quét dọn, làm như đàn ông vậy. Chàng lo nhà nghèo túng, không thể đủ ăn. Cô gái nói:

– Chỉ xin chàng cứ việc buông màn đọc sách không phải hỏi đến thiếu đủ, may không đến nỗi chết đói nào.

Rồi bỏ tiền sắm khung cửi dệt vải, lại thuê vài mươi mẫu ruộng, mướn người cày cấy, vác phạng đi phát tranh, kéo lá lợp nhà, hàng ngày như thế, coi là việc thường. Làng xóm nghe nói có vợ hiền càng vui lòng giúp đỡ. Chừng nửa năm sau, cảnh nhà thịnh vượng, như thể một nhà giàu lớn.

Một hôm chàng nói:

– Sau lúc tro tàn, nhờ mình tay trắng gây dựng lại, nhưng còn một việc chưa được thoả mãn, biết làm thế nào?

Hỏi là việc gì, chàng đáp:

– Kỳ thi sắp đến, mà khăn áo chưa lấy lại được?

Cô gái cười nói:

– Trước đây thiếp đã lấy bốn lạng vàng gửi lên quan quảng văn đã lấy lại được tên vào sổ. Ðợi chàng nhắc thì đã lỡ lâu rồi còn gì?

Chàng càng cho là thần. Khoa ấy, chàng đỗ thi Hương. Bấy giờ tuổi vừa ba mươi sáu, ruộng tốt liền bờ, nhà cửa cao rộng. Cô gái người vẫn mảnh dẻ tưởng như gió thổi là bay, mà làm lụng quá con nhà nông. Tuy mùa đông rét buốt vẫn chịu khó làm, mà bàn tay vẫn mềm mại như mỡ đông. Tự nói là ba mươi tám tuổi, người ta trông chỉ chừng đôi mươi.

Dịch Giả : ĐỖ NGỌC TOẠI
0

HỒNG NGỌC – Bồ Tùng Linh


Ông cụ họ Phùng người Quảng Bình có một con trai tên chữ là Tương Như. Hai bố con cùng là Chư sinh. Ông Phùng tuổi gần sáu mươi, tính ương ngạnh mà nhà vẫn thiếu thốn. Trong khoảng vài năm, vợ và con dâu lại cùng mất cả, việc cơm nước đều phải tự làm lấy.

Một đêm, Tương Như ngồi dưới bóng trăng, chợt thấy người con gái láng giềng từ bên kia tường nhòm sang. Chàng nhìn thấy đẹp, đến gần thấy hé cười, lấy tay vẫy, không đến, cũng không di, cố nài mãi mới trèo thang sang. Liền ăn nằm với nhau. Hỏi họ tên, cô gái nói:
0

Phong Kiều dạ bạc và chùa Hàn San

Phong Kiều dạ bạc 楓橋夜泊 • Nửa đêm đậu bến Phong Kiều (Trương Kế - 張繼 )

Chùa Hàn San
Hàn San tự

“Phong Kiều dạ bạc” (楓橋夜泊) là bài thơ rất nổi tiếng của Trương Kế (张继), tác giả sống vào khoảng trước sau năm 756- đời vua Đường Túc Tông. Trương Kế tự là Ý Tôn, từng thi đậu tiến sĩ và làm quan trong triều với chức vụ Tự bộ viên ngoại lang, về sau bị đổi ra Hồng Châu coi việc tài phú và mất tại đây. Sinh thời, ông là người học rộng, thích đàm đạo và bàn bạc văn chương, thế sự..., đặc biệt rất thích làm thơ. Thơ của ông trong “Toàn Đường thi” có chép thành một quyển, nhưng chỉ một bài “Phong Kiều dạ bạc” là tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, chỉ với nó ông đã được liệt vào hàng “đại gia” và đã giúp ông lưu danh thiên cổ.

Trong bối cảnh thành Trường An chìm trong cơn tao loạn thì nhà thơ Trương Kế, một đại quan tiến sĩ Ngự Sử đài, chẳng kịp theo đoàn hộ giá vương tôn lánh nạn mà đành lưu lạc xuống tận miền Giang Nam trên chiếc thuyền phiêu bạt. Một đêm ghé bến Phong Kiều, động mối u hoài chất chứa, gợi cảm cùng ngoại cảnh thê lương, bức xúc viết nên bài thơ tuyệt diệu, vượt qua cả không gian và thời gian, lưu truyền hậu thế:

Phong Kiều Dạ Bạc

楓橋夜泊

月落烏啼霜滿天,
江楓漁火對愁眠。
姑蘇城外寒山寺,
夜半鐘聲到客船。

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
(Trương Kế)

Dịch nghĩa:
trăng lặn, quạ kêu, sương phủ đầy trời
trong giấc mơ buồn có cây phong ở bến sông và ngọn lửa thuyền chài
chùa Hàn San ở ngoại thành Cô Tô
nửa đêm khách đi thuyền tới nghe thấy tiếng chuông chùa ngân vang

dịch thơ:
1. (Bản dịch: Tản Đà)
Quạ kêu, trăng lặn, sương rơi
Lửa chài, cây bãi, đối người nằm co
Con thuyền đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San

2. (Bản dịch: Nguyễn Hàm Ninh)
Quạ kêu, trăng lặn, trời sương,
Lửa chài le lói sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.

3. Bản dịch: Tản Đà (Theo Trần Trọng San trong sách Thơ Đường, NXB Bắc Đẩu, 1957 )
Trăng tà, tiếng quạ kêu sương,
Lửa chài, cây bến, sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.

Cuốn "Thơ Đường" của Trần Trọng San có ghi lại có một truyền thuyết khá lãng mạn về bài này. Một đêm trăng, sư cụ trụ trì chùa Hàn San, cảm hứng nghĩ ra hai câu thơ:

Sơ tam sơ tứ nguyệt mông lung
Bán tự ngân câu bán tự cung

Thao thức mãi trong phòng mà sư cụ không nghĩ ra hai câu tiếp. Tự nhiên có tiếng gõ cửa. Thì ra là chú tiểu cũng trằn trọc vì 2 câu thơ mình mới nghĩ ra:

Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn
Bán trầm thủy để bán phù không

nhưng cũng không làm tiếp được và xin thầy giúp. Nghe xong, sư cụ mừng quá, quỳ xuống tạ Phật. Vì quả thật 2 câu thơ của chú tiểu ăn khớp với 2 câu của sư cụ, thành bài tứ tuyệt mà Trần Trọng San đã dịch như sau:

Mồng ba, mồng bốn, trăng mờ
Nửa dường móc bạc nửa như cung trời
Một bình ngọc trắng chia hai
Nửa chìm đáy nước nửa cài từng không

Làm xong bài thơ này lúc nửa đêm, sư cụ bảo chú tiểu đánh chuông tạ ơn Phật. Tình cờ đêm hôm đó trên thuyền, thi sĩ Trương Kế cũng không ngủ được vì không nghĩ được câu tiếp cho hai câu "Nguyệt lạc ô đề...". Tự nhiên chuông chùa Hàn San đổ đến, gợi hứng cho thi nhân hoàn tất bài Phong Kiều Dạ Bạc "...Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.."

Còn chùa Hàn San là một ngôi chùa hẻo lánh ngoài thành Ngô Huyện thuộc tỉnh Giang Tô. Xung quanh bát ngát rừng mai, phía sau dòng sông xanh ngắt lững lờ uốn khúc, giữa hai dãy núi sừng sững vươn mình trong làn mây trắng xóa. Chùa ở bên cầu có cây phong nên gọi là Phong Kiều. Trên sông đêm có ánh lửa chài. Bài thơ của Tần Thục đời Tống có câu: " Ô đề nguyệt lạc kiều biên tự "(Quạ kêu trăng xế chùa bên cầu) và thơ Khang Hữu Vi đời Thanh, có câu "Lãnh tận Hàn San cố tự phong (Lạnh đến cả cây phong bên chùa cổ Hàn San) đều nói rõ chùa Hàn San bên cầu có cây phong. Như vậy, Giang phong và Ngư hỏa trong bài thơ trên vẫn là cây bên sông và lửa chài, chứ không phải là tên 2 quả núi Giang Phong và Ngư Hỏa như một vài giả thuyết đã nói.

Nhà thơ đời Thanh Vương Ngư Dương, từng đáp thuyền đi Tô Châu, dừng ở bến Phong Kiều, lúc ấy trời xẩm tối, mưa gió đầy trời, họ Vương đã đến bên trước cửa chùa đề hai bài thơ tứ tuyệt:

Nhật mộ đông đường chính lạc triều
Cô bồng bạc xứ vũ tiêu tiêu
Sơ chung dạ hỏa Hàn San tự
Ký quá Ngô phong đệ kỷ kiêu

Dịch nghĩa:
Chiều tối bờ đông chính lúc thủy triều xuống
Thuyền côi chốn đậu mưa dầm dề
Tiếng chuông thưa, ánh lửa đêm chùa Hàn San
Nhớ đã qua cầu bên cây phong huyện Ngô

Dịch thơ:
Chiều tối thủy triều lắng mé đông
Mưa vương lất phất đậu cô bồng
Hàn San ánh lửa chuông thưa thớt
Ngô huyện qua cầu kế ngọn phong
(Bản dịch: NDD)

Phong diệp tiêu tiêu thủy dịch không
Ly cư thiên lý trướng nan đông
Thập niên cựu ước Giang Nam mộng
Độc thính Hàn San bán dạ chung

dịch nghĩa:
Lá phong hiu hắt bến nước vắng không
Lìa quê ngìn dặm lòng buồn nhớ khó khuây
Mười năm ước cũ mộng về Giang Nam
Một mình nghe tiếng chuông chùa Hàn San lúc nửa đêm


Bến vắng rào rào trút lá phong
Nhớ quê vạn lý khó khuây lòng
Giang Nam hẹn ước mười năm mộng
Chuông đánh, Hàn San đêm quạnh không
(Bản dịch: NDD)

Đã nói đến Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế, không thể không nhắc đến Bạc Tần Hoài của Đỗ Mục. Cả hai bài thơ phác họa dưới góc nhìn thi nhân trên con thuyền hững hờ đậu bãi sông. Một bài khi nghe tiếng chuông chùa thanh thoát đưa tới, đã xoa dịu đi nỗi trầm tư muội phiền của kẻ nhất thời bôn tẩu, đang nằm co ro khắc khoải trong khoang thuyền giá lạnh. Còn một bài thì khi nghe khúc hát văng vẳng của cô gái trẻ trên sông vang lên trong khung cảnh đêm khuya tĩnh lặng, mà dường như dấy nên niềm xúc cảm u hoài trong nỗi hận mất nước.

Bạc Tần Hoài

Yên lung hàn thủy nguyệt lung sa
Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia
Thương nữ bất tri vong quốc hận
Cách giang do xướng Hậu Đình Hoa
(Đỗ Mục)

Dịch nghĩa:
khói lan tỏa trên nước lạnh, ánh nguyệt lan trên cát
Buổi đêm đậu thuyền tại bến sông Tần Hoài cạnh quán rượu
Cô gái trẻ không biết đến nỗi hận mất nước
Ở bên kia sông còn hát khúc Hậu Đình Hoa

Tần Hoài: tên con sông từ tỉnh Giang Tô chảy lên phía Bắc vào sông Trường Giang.
Hậu Đình Hoa: tên khúc hát làm trong buổi tiệc của vua Trần Hậu Chủ và Trương Quý Phi thời Nam Bắc triều

Dịch thơ:
Thuyền Đậu Sông Tần Hoài

Khói trùm nước lạnh, trăng lồng cát;
Thuyền đậu Tần Hoài, cạnh tửu gia.
Cô gái không hay buồn nước mất,
Bên sông còn hát Hậu Đình Hoa
(Bản dịch: Trần Trọng San)

Khói lan phảng phất trên mặt nước, ánh trăng soi bóng trên mặt cát, thuyền nhẹ lững lờ đậu cạnh quán rượu. Cảnh trăng khuya mới tĩnh mịch làm sao. Bỗng bên kia sông vang lên một tiếng hát văng vẳng. Khúc hát trong những buổi yến tiệc vui chơi mà khiến lòng thi nhân chua xót như oán trách ai vô tình khi bồi hồi nghĩ đến nỗi hận mất nước....

Tác giả: NDD @Mai Hoa Trang

Nguồn: Thivien.net (link vào bài này trên thivien.net bị hỏng )


Bến Phong Kiều ngày nay
0