Những hành động phi pháp của Trung Quốc thời gian qua ngày càng cho thấy rõ mưu đồ nhất quán của nước này nhằm độc chiếm Biển Đông.
Đá Chữ Thập trong quần đảo Trường Sa của VN bị Trung Quốc chiếm đóng và xây dựng thành đảo nhân tạo phi pháp, biến nơi đây thành căn cứ quân sự
Theo dõi tình hình Biển Đông suốt nhiều năm qua, các chuyên gia trong nước và quốc tế đều có chung nhận định là Trung Quốc ngày càng thể hiện rõ âm mưu chiếm trọn Biển Đông xuyên suốt của mình bằng nhiều cách. Chiến lược đó càng kéo dài càng gây ra những hệ lụy nguy hiểm đối với an ninh khu vực.
Âm mưu lâu dài độc chiếm Biển Đông
Từ giữa thế kỷ 20, Trung Quốc đã lăm le Biển Đông trong tuyên bố năm 1958 về nới rộng lãnh hải ra 12 hải lý. Tiếp đó là các cuộc cưỡng chiếm Hoàng Sa rồi các bãi đá ở Trường Sa (đều thuộc chủ quyền của VN).
Theo PGS-TS Vũ Thanh Ca (nguyên Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế và khoa học công nghệ - Tổng cục Biển và Hải đảo VN): “Cái mà Trung Quốc thèm muốn không chỉ là các đảo đá mà là toàn bộ Biển Đông. Mục đích chính của Trung Quốc khi chiếm các đảo đá là làm cơ sở cho yêu sách chủ quyền và tạo bàn đạp để khống chế Biển Đông”.
Theo ông Ca, Trung Quốc đã đưa ra yêu sách về đường lưỡi bò cực kỳ phi lý, tuyên bố các “quyền lịch sử” đối với khoảng 87% diện tích Biển Đông.
Nước này rất mập mờ về cái gọi là “quyền lịch sử”, nhưng khi hành xử, họ tự ý cấm các quốc gia xung quanh Biển Đông đánh cá, ngăn trở thăm dò, khai thác dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia bị đưa vào phạm vi đường lưỡi bò.
Như vậy, Trung Quốc đã tự ý biến khu vực biển mà đường lưỡi bò “liếm trúng” như vùng đặc quyền kinh tế của mình. Để biến Biển Đông thành “ao nhà”, Trung Quốc thực hiện rất nhiều thủ đoạn từ mặt trận ngoại giao, truyền thông cho đến thực địa.
Trong bài trả lời phỏng vấn Thanh Niên, Giáo sư Alexander Vuving (Trung tâm nghiên cứu an ninh châu Á - Thái Bình Dương, thuộc Bộ Quốc phòng Mỹ) phân tích: “Các hoạt động xây dựng cơ sở, công trình và triển khai vũ khí, khí tài quân sự trên các vị trí mà Trung Quốc chiếm đóng hoàn toàn nằm trong chiến lược nhất quán của họ tại Biển Đông.
Một chủ trương lớn trong chiến lược này là biến các vị trí chiếm đóng thành căn cứ hậu cần và quân sự tiền phương, tạo bàn đạp cho các phương tiện như máy bay, tàu nổi, tàu ngầm của Trung Quốc tỏa ra thống lĩnh vùng trời và vùng biển ở Biển Đông”.
Theo chuyên gia này, quá trình xây đảo nhân tạo phi pháp trong giai đoạn 2013 - 2015 là một bước rất quan trọng, nhưng chưa phải là bước cuối cùng trong quá trình Trung Quốc theo đuổi.
“Trong khoảng 5 - 10 năm tới, Trung Quốc có thể tiến đến giai đoạn cuối trong quá trình tạo dựng và củng cố thế đứng trên Biển Đông, tức là giai đoạn từ các bàn đạp trên các đảo chiếm đóng ở Hoàng Sa và Trường Sa, Trung Quốc có thể phản ứng tức thời và áp đảo lực lượng của bất kỳ nước nào khác trên bất cứ khu vực nào ở Biển Đông.
Cần nhớ là Trung Quốc đang có thêm một số tàu sân bay mới và trong ít năm nữa, Bắc Kinh hoàn toàn có thể để một tàu sân bay thường trực ở Biển Đông”, ông nhấn mạnh.
Trong khi đó, tiến sĩ Nguyễn Thành Trung (Giám đốc Trung tâm nghiên cứu quốc tế - ĐH KHXH-NV TP.HCM) nhận định tùy theo tình hình khu vực và thế giới mà Trung Quốc có thể giảm hoạt động, nhưng chắc chắn sẽ không dừng cho đến khi mục tiêu hoàn thành.
“Theo tôi, ý đồ của Trung Quốc quá rõ và họ cũng không giấu giếm muốn độc chiếm Biển Đông. Chính sách của họ khá nhất quán trong một thời gian dài, và họ lợi dụng bất kỳ cơ hội nào có được để từng bước hiện thực hóa tham vọng của mình”, ông Trung nói với Thanh Niên.
Lời nói không đi đôi với việc làm
Theo chuyên gia luật Biển Hoàng Việt (Liên đoàn Luật sư VN), Trung Quốc luôn tự nhận là “nước lớn, luôn tuân thủ luật pháp quốc tế”, nhanh chóng tham gia các định chế quốc tế, nhưng trên thực tế lại hoàn toàn đi ngược cam kết của mình.
Trung Quốc tham gia Công ước LHQ về luật Biển 1982 (UNCLOS) nhưng lại khước từ phiên tòa và phán quyết năm 2016 của Tòa trọng tài được thành lập hợp pháp, trong đó bác bỏ yêu sách đường lưỡi bò phi pháp trên Biển Đông.
Trước đó, Chủ tịch Tập Cận Bình năm 2015 tuyên bố “không quân sự hóa Biển Đông”, mà cụ thể là các đảo đá ở Trường Sa, nhưng Bắc Kinh lại ngang nhiên xây dựng các tiền đồn quân sự, triển khai vũ khí. Đây là hành động “nói một đằng, làm một nẻo”, rõ ràng đã vi phạm luật pháp quốc tế, gây bất ổn và căng thẳng tình hình, không hề góp phần duy trì hòa bình và ổn định khu vực như đã cam kết.
“Nước lớn là phải có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế. Trách nhiệm ở đây đồng nghĩa với việc phải tôn trọng luật chơi, đặc biệt là luật pháp quốc tế, nhưng Trung Quốc ngang nhiên vi phạm.
Mới đây nhất Trung Quốc còn có hành vi quấy nhiễu đối với lực lượng chấp pháp của VN, Malaysia, Philippines, ngang nhiên đưa tàu thăm dò địa chất vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của VN”, ông Hoàng Việt nhấn mạnh với Thanh Niên.
Tương tự, tiến sĩ luật Trần Thăng Long (Trường ĐH Luật TP.HCM) khẳng định những hoạt động phi pháp của Trung Quốc cho thấy ý đồ độc chiếm Biển Đông của nước này chưa bao giờ thay đổi và họ luôn muốn “hòa bình, ổn định” theo kiểu riêng, đó là thừa nhận các hành động phi pháp và hợp pháp hóa nó và một mặt tiếp tục kêu gọi hòa bình, ổn định, tôn trọng luật pháp quốc tế, mặt khác tiếp tục bằng những hành động bất chấp.
“Bản chất lời nói không đi đôi với việc làm của Trung Quốc luôn được thể hiện qua các hành động coi thường cộng đồng quốc tế và các nước trong khu vực”, theo ông Long.
Theo Thanh Niên
0
Đá Chữ Thập trong quần đảo Trường Sa của VN bị Trung Quốc chiếm đóng và xây dựng thành đảo nhân tạo phi pháp, biến nơi đây thành căn cứ quân sự
Theo dõi tình hình Biển Đông suốt nhiều năm qua, các chuyên gia trong nước và quốc tế đều có chung nhận định là Trung Quốc ngày càng thể hiện rõ âm mưu chiếm trọn Biển Đông xuyên suốt của mình bằng nhiều cách. Chiến lược đó càng kéo dài càng gây ra những hệ lụy nguy hiểm đối với an ninh khu vực.
Âm mưu lâu dài độc chiếm Biển Đông
Từ giữa thế kỷ 20, Trung Quốc đã lăm le Biển Đông trong tuyên bố năm 1958 về nới rộng lãnh hải ra 12 hải lý. Tiếp đó là các cuộc cưỡng chiếm Hoàng Sa rồi các bãi đá ở Trường Sa (đều thuộc chủ quyền của VN).
Theo PGS-TS Vũ Thanh Ca (nguyên Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế và khoa học công nghệ - Tổng cục Biển và Hải đảo VN): “Cái mà Trung Quốc thèm muốn không chỉ là các đảo đá mà là toàn bộ Biển Đông. Mục đích chính của Trung Quốc khi chiếm các đảo đá là làm cơ sở cho yêu sách chủ quyền và tạo bàn đạp để khống chế Biển Đông”.
Theo ông Ca, Trung Quốc đã đưa ra yêu sách về đường lưỡi bò cực kỳ phi lý, tuyên bố các “quyền lịch sử” đối với khoảng 87% diện tích Biển Đông.
Nước này rất mập mờ về cái gọi là “quyền lịch sử”, nhưng khi hành xử, họ tự ý cấm các quốc gia xung quanh Biển Đông đánh cá, ngăn trở thăm dò, khai thác dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia bị đưa vào phạm vi đường lưỡi bò.
Như vậy, Trung Quốc đã tự ý biến khu vực biển mà đường lưỡi bò “liếm trúng” như vùng đặc quyền kinh tế của mình. Để biến Biển Đông thành “ao nhà”, Trung Quốc thực hiện rất nhiều thủ đoạn từ mặt trận ngoại giao, truyền thông cho đến thực địa.
Trong bài trả lời phỏng vấn Thanh Niên, Giáo sư Alexander Vuving (Trung tâm nghiên cứu an ninh châu Á - Thái Bình Dương, thuộc Bộ Quốc phòng Mỹ) phân tích: “Các hoạt động xây dựng cơ sở, công trình và triển khai vũ khí, khí tài quân sự trên các vị trí mà Trung Quốc chiếm đóng hoàn toàn nằm trong chiến lược nhất quán của họ tại Biển Đông.
Một chủ trương lớn trong chiến lược này là biến các vị trí chiếm đóng thành căn cứ hậu cần và quân sự tiền phương, tạo bàn đạp cho các phương tiện như máy bay, tàu nổi, tàu ngầm của Trung Quốc tỏa ra thống lĩnh vùng trời và vùng biển ở Biển Đông”.
Theo chuyên gia này, quá trình xây đảo nhân tạo phi pháp trong giai đoạn 2013 - 2015 là một bước rất quan trọng, nhưng chưa phải là bước cuối cùng trong quá trình Trung Quốc theo đuổi.
“Trong khoảng 5 - 10 năm tới, Trung Quốc có thể tiến đến giai đoạn cuối trong quá trình tạo dựng và củng cố thế đứng trên Biển Đông, tức là giai đoạn từ các bàn đạp trên các đảo chiếm đóng ở Hoàng Sa và Trường Sa, Trung Quốc có thể phản ứng tức thời và áp đảo lực lượng của bất kỳ nước nào khác trên bất cứ khu vực nào ở Biển Đông.
Cần nhớ là Trung Quốc đang có thêm một số tàu sân bay mới và trong ít năm nữa, Bắc Kinh hoàn toàn có thể để một tàu sân bay thường trực ở Biển Đông”, ông nhấn mạnh.
Bản chất lời nói không đi đôi với việc làm của Trung Quốc luôn được thể hiện qua các hành động coi thường cộng đồng quốc tế và các nước trong khu vực
- Tiến sĩ luật Trần Thăng Long
Trong khi đó, tiến sĩ Nguyễn Thành Trung (Giám đốc Trung tâm nghiên cứu quốc tế - ĐH KHXH-NV TP.HCM) nhận định tùy theo tình hình khu vực và thế giới mà Trung Quốc có thể giảm hoạt động, nhưng chắc chắn sẽ không dừng cho đến khi mục tiêu hoàn thành.
“Theo tôi, ý đồ của Trung Quốc quá rõ và họ cũng không giấu giếm muốn độc chiếm Biển Đông. Chính sách của họ khá nhất quán trong một thời gian dài, và họ lợi dụng bất kỳ cơ hội nào có được để từng bước hiện thực hóa tham vọng của mình”, ông Trung nói với Thanh Niên.
Lời nói không đi đôi với việc làm
Theo chuyên gia luật Biển Hoàng Việt (Liên đoàn Luật sư VN), Trung Quốc luôn tự nhận là “nước lớn, luôn tuân thủ luật pháp quốc tế”, nhanh chóng tham gia các định chế quốc tế, nhưng trên thực tế lại hoàn toàn đi ngược cam kết của mình.
Trung Quốc tham gia Công ước LHQ về luật Biển 1982 (UNCLOS) nhưng lại khước từ phiên tòa và phán quyết năm 2016 của Tòa trọng tài được thành lập hợp pháp, trong đó bác bỏ yêu sách đường lưỡi bò phi pháp trên Biển Đông.
Trước đó, Chủ tịch Tập Cận Bình năm 2015 tuyên bố “không quân sự hóa Biển Đông”, mà cụ thể là các đảo đá ở Trường Sa, nhưng Bắc Kinh lại ngang nhiên xây dựng các tiền đồn quân sự, triển khai vũ khí. Đây là hành động “nói một đằng, làm một nẻo”, rõ ràng đã vi phạm luật pháp quốc tế, gây bất ổn và căng thẳng tình hình, không hề góp phần duy trì hòa bình và ổn định khu vực như đã cam kết.
“Nước lớn là phải có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế. Trách nhiệm ở đây đồng nghĩa với việc phải tôn trọng luật chơi, đặc biệt là luật pháp quốc tế, nhưng Trung Quốc ngang nhiên vi phạm.
Mới đây nhất Trung Quốc còn có hành vi quấy nhiễu đối với lực lượng chấp pháp của VN, Malaysia, Philippines, ngang nhiên đưa tàu thăm dò địa chất vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của VN”, ông Hoàng Việt nhấn mạnh với Thanh Niên.
Tương tự, tiến sĩ luật Trần Thăng Long (Trường ĐH Luật TP.HCM) khẳng định những hoạt động phi pháp của Trung Quốc cho thấy ý đồ độc chiếm Biển Đông của nước này chưa bao giờ thay đổi và họ luôn muốn “hòa bình, ổn định” theo kiểu riêng, đó là thừa nhận các hành động phi pháp và hợp pháp hóa nó và một mặt tiếp tục kêu gọi hòa bình, ổn định, tôn trọng luật pháp quốc tế, mặt khác tiếp tục bằng những hành động bất chấp.
“Bản chất lời nói không đi đôi với việc làm của Trung Quốc luôn được thể hiện qua các hành động coi thường cộng đồng quốc tế và các nước trong khu vực”, theo ông Long.
Nhiều năm qua, Trung Quốc sử dụng cả học giả trong nước, học giả gốc Hoa ở nước ngoài, thậm chí cả chuyên gia phương Tây để tuyên truyền cho luận điệu ngụy biện của mình về Biển Đông, thậm chí lồng ghép bản đồ “đường lưỡi bò” phi pháp vào các bài báo khoa học quốc tế không liên quan đến Biển Đông.
Theo tiến sĩ Nguyễn Thành Trung, nếu tình trạng này kéo dài thì Trung Quốc sẽ có nhiều khả năng định hình, chiếm ưu thế và thậm chí dẫn dắt diễn ngôn của giới nghiên cứu về tình hình Biển Đông. “Điều này sẽ cực kỳ nguy hiểm cho việc khẳng định chủ quyền của VN”, ông cảnh báo.
Tương tự, chuyên gia Hoàng Việt nói với Thanh Niên: “Chỉ mới cách đây vài ngày, một học giả nước ngoài gửi cho tôi xem một bài báo khoa học không liên quan Biển Đông nhưng lại xuất hiện đường lưỡi bò chễm chệ trong đó. Điều này thật sự nguy hại vì Trung Quốc sẽ từng bước biến không thành có, nại lý do là đường này đã được “công bố từ lâu trên thế giới mà không ai phản đối”.
Theo Thanh Niên