kimluc
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thời sự. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thời sự. Hiển thị tất cả bài đăng

1.400 nhà đầu tư Nhật Bản xem xét mở rộng sản xuất sang Việt Nam


Theo Tổ chức Xúc tiến Thương mại Nhật Bản (JETRO), 41% công ty Nhật Bản với khoảng 1.400 doanh nghiệp đang hướng đến Việt Nam để mở rộng sản xuất. JETRO nhấn mạnh, giới đầu tư Nhật Bản chuyển trọng tâm sang Châu Á do chiến tranh thương mại Mỹ-Trung.

Việt Nam và Nhật Bản cũng ưu tiên thúc đẩy liên kết chuỗi cung ứng toàn cầu. Lãnh đạo Bộ trưởng Bộ Công Thương Việt Nam Trần Tuấn Anh và Bộ trưởng Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản Kajiyama Hiroshi đã bàn bạc nhiều vấn đề quan trọng liên quan đến hợp tác kinh tế -thương mại giữa hai nước.

41% doanh nghiệp Nhật Bản xem xét mở rộng sản xuất tại Việt Nam

Theo Tổ chức Xúc tiến Thương mại Nhật Bản (JETRO), ngày càng nhiều công ty Nhật muốn mở rộng kinh doanh ở Đông Nam Á và thu nhỏ hoạt động tại Trung Quốc do căng thẳng giữa Bắc Kinh và Washington leo thang.

Hãng tin Kyodo trích dẫn một cuộc khảo sát của JETRO được thực hiện vào cuối năm ngoái, cơ quan do chính phủ Nhật Bản hậu thuẫn cho biết, theo một báo cáo thương mại và đầu tư hàng năm, có đến 41% (tức khoảng 1.400 doanh nghiệp công ty Nhật Bản) đang xem xét mở rộng hoạt động tại Việt Nam trong ba năm tới, tăng 5,5% so với một năm trước đó.

Báo cáo công bố ngày 30/7 trích dẫn cuộc khảo sát cho biết 36,3% người được hỏi đưa ra câu trả lời tương tự cho Thái Lan, tăng 1,5%, trong khi 48,1% nói rằng họ sẽ thúc đẩy kinh doanh ở Trung Quốc, giảm 7,3%.

“Kể từ năm 2018, căng thẳng leo thang giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc đã thúc đẩy việc đầu tư của các công ty Nhật Bản vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á”, báo cáo cho biết.

“Khoảng cách giữa lượng đầu tư (Nhật Bản) vào ASEAN và Trung Quốc đã mở rộng từ 10,2 tỷ yên vào năm 2017 lên 20,4 tỷ yên (191 triệu USD) vào năm 2019”, số liệu thống kê ghi nhận.

Nói về những động thái hướng tới việc tái tổ chức chuỗi cung ứng toàn cầu, một doanh nghiệp sản xuất thép, kim loại màu và gia công các bộ phận kim loại ở Tokyo cho biết họ đã chuyển một phần chuỗi sản xuất từ Trung Quốc sang Thái Lan và chuyển các mặt hàng xuất khẩu đi Mỹ từ Trung Quốc sang Thái Lan.

Một nhà sản xuất thép và kim loại màu ở vùng Shikoku, miền tây Nhật Bản, cho biết họ đang có kế hoạch chuyển sản xuất các mặt hàng xuất khẩu từ Trung Quốc sang Việt Nam.

Cuộc khảo sát, được thực hiện vào tháng 11 và tháng 12, với sự tham gia của 9.975 công ty Nhật Bản, cho biết có khoảng 3.562 doanh nghiệp (tương đương 35,7%) quan tâm nhiều đến hoạt động kinh doanh ở nước ngoài.

Trong khi đó, khoảng 80% các công ty Nhật Bản hoạt động ở nước ngoài dự báo rằng doanh số bán hàng sẽ giảm vào năm 2020 so với năm trước do nhu cầu thu hẹp sau đại dịch Covid-19, theo báo cáo hàng năm.

Ở châu Á, có đến 91,4% công ty Nhật Bản hoạt động ở Ấn Độ, 89,4% ở Malaysia, 88,4% ở Thái Lan, 85,3% ở Philippines và 84,4% ở Indonesia đưa ra dự báo tương tự. Đại dịch cũng đã làm giảm đáng kể đầu tư của Nhật Bản vào thị trường châu Á.

Trong 5 tháng đầu năm 2020, đầu tư của Nhật Bản vào Indonesia giảm 75% so với cùng kỳ năm trước, trong khi giảm 35,5% đối với toàn ASEAN.

Trước đó, hồi tháng 7, Trưởng đại diện Văn phòng JETRO Hà Nội Takeo Nakajima nhấn mạnh, Việt Nam là quốc gia kiểm soát tốt dịch bệnh nên doanh nghiệp Nhật Bản kỳ vọng sớm khôi phục sản xuất tại quốc gia Đông Nam Á này.

Theo ông Takeo Nakajima, về dài hạn, trong 10-15 năm tới, việc mở rộng cơ sở sản xuất của giới đầu tư Nhật sẽ được tăng cường và Việt Nam có thể trở thành thị trường tiềm năng vừa xuất khẩu vừa tiêu thụ nội địa.

Việt Nam – Nhật Bản thúc đẩy liên kết chuỗi cung ứng

Trước đó, vào đầu tháng 8, theo cơ chế luân phiên, Kỳ họp lần thứ 4 Ủy ban hỗn hợp Việt Nam – Nhật Bản về hợp tác Công nghiệp, Thương mại và Năng lượng được tổ chức tại Việt Nam theo hình thức họp trực tuyến.

Tại cuộc họp này, với lãnh đạo Bộ trưởng Bộ Công Thương Việt Nam Trần Tuấn Anh và Bộ trưởng Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản Kajiyama Hiroshi đã bàn bạc nhiều vấn đề quan trọng liên quan đến hợp tác kinh tế -thương mại giữa hai nước, đặc biệt là thúc đẩy liên kết chuỗi cung ứng.

Điểm đáng chú ý trong kỳ họp lần thứ 4 này, hai Bộ trưởng bày tỏ hài lòng về những kết quả hợp tác giữa hai bên kể từ Kỳ họp lần thứ 3 của Uỷ ban hỗn hợp Việt Nam Nhật Bản, đặc biệt là kết quả hợp tác trong các khuôn khổ ASEAN, Hiệp định Đối tác Kinh tế khu vực (RCEP), Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), hợp tác năng lượng, hợp tác trong ngành công nghiệp ô tô, hóa chất, đào tạo nguồn nhân lực công nghiệp.


Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh chủ trì cuộc họp tại đầu cầu Hà Nội.

Trên thực tế, cơ chế Ủy ban hỗn hợp Việt Nam-Nhật Bản đóng vai trò quan trọng trong việc tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, đảm bảo duy trì, không gián đoạn và thúc đẩy quan hệ hợp tác song phương giữa hai nước, đặc biệt là trong bối cảnh dịch bệnh do coronavirus đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế thế giới, khu vực nói chung và hoạt động giao thương giữa hai nước nói riêng.

Hai Bộ trưởng nhất trí việc hợp tác thương mại, công nghiệp và năng lượng giữa hai Bên trong thời gian tới cần bám sát theo các mục tiêu của Tuyên bố chung của các Bộ trưởng Kinh tế ASEAN-Nhật Bản về sáng kiến phục hồi kinh tế ứng phó với dịch Covid-19 và Kế hoạch hành động phục hồi kinh tế ASEAN-Nhật Bản.

Tại cuộc họp, đồng chí Trần Tuấn Anh và ông Kajiyama Hiroshi cùng xác định phương hướng tăng cường hợp tác song phương thời gian tới, trong lĩnh vực công nghiệp, đồng thời, khẳng định cần tính tới nhiều yếu tố khác nhau bao gồm tính đa dạng, minh bạch và bền vững trong việc xây dựng chuỗi cung ứng vững chắc, có khả năng chống chịu tác động.

Đối với vấn đề này, hai Bộ trưởng nhất trí tầm quan trọng của việc thúc đẩy liên kết chuỗi cung ứng giữa hai nước ngày càng chặt chẽ, bền vững hơn thông qua việc khuyến khích và hỗ trợ đa dạng hóa cơ sở sản xuất hàng hóa, nguyên liệu ở nước ngoài. Đồng thời bày tỏ kỳ vọng vào sự hợp tác giữa các công ty Nhật Bản và Việt Nam để thực hiện mục tiêu này.

“Chính phủ Việt Nam cam kết tiếp tục hoàn thiện môi trường đầu tư trong thời gian tới nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài nói chung và các nhà đầu tư, doanh nghiệp Nhật Bản nói riêng”, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cho biết.

Nhật Bản hỗ trợ phát triển nhân lực cho Việt Nam?

Về việc hợp tác nâng cao năng lực và sức cạnh tranh công nghiệp, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh đánh giá cao đóng góp của các hỗ trợ kỹ thuật từ Nhật Bản trong phát triển nguồn nhân lực và nâng cao năng lực trong những năm qua.

Bên cạnh đó, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh chia sẻ, rất vui mừng trước việc dự án tại Việt Nam nằm trong sáng kiến của Nhật Bản về phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực phần mềm điều khiển ô tô trong các nước ASEAN sẽ được triển khai đầu tiên trong năm 2020 này.

Hợp tác giữa hai Bên trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực và nâng cao năng lực sẽ có ý nghĩ hơn thông qua việc nhân rộng mô hình đào tạo “kỹ thuật gắn liền với kỹ năng thực hành và sáng tạo” (mô hình KOSEN) tại các cơ sở đào tạo của Bộ Công Thương.

“Hợp tác này nhằm nâng cao năng lực và tạo thêm giá trị gia tăng cho một số ngành công nghiệp chủ chốt tại Việt Nam như hóa chất, dệt may, công nghiệp ô tô và công nghiệp phụ trợ”, ông Trần Tuấn Anh cho biết.

Đặc biệt bằng cách tận dụng sự hợp tác của khu vực công và tư nhân về chuyển đổi kỹ thuật số, chẳng hạn như chương trình hợp tác trực tuyến mới do Tổ chức Ngoại thương Nhật Bản (JETRO) và các cơ quan hữu quan của Việt Nam khởi xướng.

Cùng với đó, hai Bộ trưởng khẳng định tầm quan trọng của việc thúc đẩy hợp tác hơn nữa trong ứng dụng và chuyển giao công nghệ số cũng như sản xuất thông minh giữa các doanh nghiệp Việt Nam và Nhật Bản.

Nhận thức được tính tất yếu của việc thúc đẩy phát triển công nghiệp 4.0 nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành công nghiệp, hai bên khẳng định tầm quan trọng của việc chia sẻ kinh nghiệm và phát triển khung chính sách thúc đẩy phát triển công nghiệp 4.0.

Liên quan đến mục tiêu thúc đẩy hội nhập kinh tế trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong bối cảnh chủ nghĩa bảo hộ ngày càng phát triển hơn do những thách thức mà Covid-19 đặt ra, các Bộ trưởng của Việt Nam và Nhật Bản tái khẳng định sẽ tiếp tục phấn đấu vì một môi trường thương mại và đầu tư tự do, công bằng, không phân biệt đối xử, minh bạch, có thể dự đoán và ổn định, để giữ cho thị trường mở và để duy trì hệ thống đa phương dựa trên luật lệ trong khuôn khổ các hiệp định của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).

Các Bộ trưởng khẳng định lại cam kết thúc đẩy hội nhập kinh tế ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đồng thời nhất trí ủng hộ và phối hợp chặt chẽ với nhau tại các khuôn khổ hợp tác kinh tế, thương mại đa phương mà hai bên cùng tham gia, đặc điểm địa lý tại các cuộc họp đa phương bao gồm ASEAN + 3, EAS và APEC.

Đối với lĩnh vực năng lượng, hai Bộ trưởng tái khẳng định tầm quan trọng của hệ thống năng lượng có khả năng phục hồi với nguồn cung cấp năng lượng sạch và giá cả phải chăng, ổn định trong việc hỗ trợ các hoạt động kinh tế và cách thức tận dụng tất cả các nguồn năng lượng và công nghệ, trong bối cảnh bùng phát dịch Covid-19.

Phía Việt Nam và Nhật Bản đều chia sẻ quan điểm Dự án Nhà máy Lọc dầu Nghi Sơn là rất quan trọng đối với cả hai nước. Hai vị lãnh đạo nhất trí rằng Chính phủ Việt Nam và Nhật Bản sẽ tiếp tục quan tâm đến dự án trên cơ sở các điều kiện hai bên đã thỏa thuận.

Theo: https://vn.sputniknews.com/business/202008179372666-cuoc-thao-chay-khoi-trung-quoc-1400-nha-dau-tu-nhat-ban-chon-viet-nam/
0

Việt Nam : Giữ đồng bằng sông Cửu Long nhờ phát triển bền vững và nhân lực


Tháng 04 và 05/2020, đồng bằng sông Cửu Long trải qua mùa hạn hán và xâm nhập mặn kéo dài nhất từ trước đến nay. Tuy nhiên, thiệt hại về mùa màng không lớn bằng đợt hạn 2016 do người dân và chính quyền địa phương đã rút được bài học và chuyển đổi một số diện tích cây trồng, theo nghị quyết số 120/NQ-CP Về Phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, có hiệu lực từ ngày 17/11/2017.

Nghị quyết này đã giúp tháo gỡ về mặt chính sách cho Việt Nam, theo nhận định của tiến sĩ Dương Văn Ni, chủ tịch Quỹ Nghiên cứu và Bảo tồn Mekong, khi trả lời phỏng vấn RFI Tiếng Việt. Ngoài ra, ông cũng nhấn mạnh đến nguồn nhân lực và sự phối hợp giữa các nước trong vùng để có thể bảo đảm tương lai bền vững cho khu vực sông Mêkông.



RFI : Mùa hạn 2020 đã khiến ngành nông nghiệp trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là ngành trồng lúa, bị tác động nặng, đâu là giải pháp cho lĩnh vực này ?

TS. Dương Văn Ni : Năm 2017, thủ tướng ra nghị quyết 120. Tôi cho là nghị quyết 120 là một trong những tháo gỡ về mặt chính sách tốt nhất cho Việt Nam vào lúc này. Nghị quyết 120 đó đề cập đến mấy vấn đề cốt lõi.

Vấn đề thứ nhất đề cập là các nguồn nước, kể cả nước mặn, cũng phải xem như một dạng tài nguyên. Điểm này hoàn toàn khác với tư duy trước đó : Hễ thấy nước mặn là phải có một công trình nào đó ngăn chặn. Bây giờ công nhận nước mặn như một tài nguyên để mà khai thác nó dưới diện nào đó cho có hiệu quả về kinh tế. Tôi cho rằng sự thay đổi đó rất là căn cơ.

Nhưng điều quan trọng hơn nữa là nền nông nghiệp : Nhà nước cho phép chuyển dịch nền nông nghiệp theo hướng chiều sâu, hay là theo hướng có hiệu quả kinh tế nhất, chứ không phải là khư khư ép người dân trồng nhiều lúa để gọi là “bảo đảm an ninh lương thực”. Đây là điều làm trong nhiều năm qua, chúng ta đẩy mạnh diện tích lúa ra sát bờ biển, trong khi vùng sát bờ biển vốn không thuận lợi cho trồng lúa. Bởi vì, năm nào khi dứt mưa, vùng này chắc chắn là sông rạch bị ảnh hưởng nặng, bị nhiễm mặn. Nhưng nhờ đợt hạn mặn 2015-2016 cho thấy những nỗ lực đưa nước ngọt, đưa cây lúa ra vùng duyên hải rất là bấp bênh. Những bài học đó giúp cho người dân, giúp cho chính quyền địa phương và cả cấp trung ương nhìn thấy ra được vấn đề chỗ nào rất bị tổn thương, chỗ nào không cần chăm chăm đưa cây lúa vào đó.

Tôi cho rằng 2017, Nhà nước ra được nghị quyết 120 là tháo gỡ khó khăn mang tính vĩ mô và như vậy nó giúp cho người dân có cơ hội điều chỉnh lại sản xuất của họ. Có nghĩa là nếu vùng đó thường xuyên bị mặn đe dọa và xâm nhập như vậy, tốt nhất là chúng ta nên chọn loại cây trồng, vật nuôi nào phù hợp hơn là cứ cố giữ khư khư cây lúa theo chỉ thị của Nhà nước. Đó là cái mở mang rất tốt !

RFI : Sau khi Nhà nước ban hành nghị quyết 120, nông dân ở đồng bằng sông Cửu Long hiện chuyển sang hướng canh tác nào được cho là phù hợp với điều kiện thời tiết của vùng ?

TS. Dương Văn Ni : Nghị quyết chỉ mang tính rất tổng thể, giải quyết được vấn đề vĩ mô. Còn để đi vào thực tế, thực tiễn từng vùng, thì điều này lại hoàn toàn phụ thuộc vào sự sáng tạo của người dân và chính quyền địa phương.

Bởi một lý do là trong một thời gian dài, chúng ta tập trung quá nhiều cho cây lúa, và bây giờ chuyển qua cây trồng và con khác, thì thứ nhất phải cần đến hạ tầng về kỹ thuật phải tương đối đồng bộ (hệ thống tưới tiêu, hệ thống dẫn nước…). Bây giờ ví dụ muốn nuôi trồng thủy sản, thì cũng phải có cải tiến hoặc thiết kế lại, công việc này tốn rất nhiều thời gian, cũng như kinh phí.

Điểm thứ hai, quan trọng hơn, đó là hạ tầng về xã hội và kinh tế. Ví dụ, ngày xưa trồng cây lúa, thì bao nhiêu chục năm nay, người dân biết trồng như thế nào. Bây giờ chuyển sang một cây trồng khác, việc đầu tiên là người dân phải nắm được kỹ thuật để quản lý mùa vụ của cây con đó. Khi người dân đã biết những việc đó rồi thì hạ tầng, dịch vụ phục vụ liệu đã có sẵn chưa, bởi vì một thời gian dài, chúng ta chỉ phục vụ cho cây lúa, giờ chuyển sang cây con khác, người ta không chuẩn bị sẵn vật tư, phân bón hay thuốc sâu, thuốc bệnh đó.

Tiếp theo phải nói tới công lao động. Phải nói rằng hiện nay cây lúa đã được cơ giới hóa với một tỉ lệ rất lớn, từ khâu làm đất đến thu hoạch. Bây giờ chuyển qua những cây trồng khác thì cần một lượng lao động nhiều để chuẩn bị gieo sạ hay thu hoạch. Điểm quan trọng cuối cùng là không biết bán cho ai và ai ăn, nên vẫn chưa biết thị trường ở đâu.

Những điểm trên cho thấy rằng mặc dầu nghị quyết 120 đã tháo gỡ những nút thắt, nhưng để chuyện đó thành hiện thực, cụ thể ở một nơi nào đó, thì cần sự quyết tâm và sự sáng tạo của người dân và chính quyền địa phương nơi đó.

RFI : Ngoài tình trạng thiên tai, còn phải nêu thêm vấn đề nguồn lao động do người dân, đặc biệt là thanh niên, di cư lên các thành phố lớn. Tương lai của đồng bằng sông Cửu Long sẽ ra sao ?

TS. Dương Văn Ni : Nếu mà gọi là tương lai của đồng bằng sông Cửu Long như thế nào, chúng ta phải chia làm mấy loại tương lai.

Thứ nhất là tương lai gần. Tôi thấy trước mắt một vấn đề rất cụ thể là diện tích bình quân trên đầu người đã quá nhỏ do mật độ dân cư của đồng bằng đã quá lớn : Trước đây chỉ có 5-6 triệu người, giờ lên tới 20 triệu. Rồi vấn đề thiên tai, dịch bệnh, nước biển dâng, mưa bão... làm cho người dân không sống nổi trên mảnh đất của mình nữa, bởi thu nhập không đủ để trang trải nhu cầu của cuộc sống. Thành thử ra hiện nay, những người trẻ phải bỏ xứ, đi làm những nơi xa như ở trên thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Sông Bé... Đây là một vấn đề rủi ro cho tương lai. Rủi ro là vì nguồn nhân lực không phải là thanh niên nữa.

Thứ hai là các đập ở phía thượng nguồn sẽ làm cho dòng nước thất thường, lúc nhiều thì nhiều qua, lúc ít thì lại không có thêm, gây hạn chồng hạn, lũ chồng lũ. Do đó, những thiên tai do con người đóng góp vô làm cho thêm trầm trọng, càng ngày càng nhiều trong tương lai.

Cái thứ ba, nói gì thì nói, chúng ta nhìn năng lực sản xuất của người dân đồng bằng mới là vấn đề quan trọng. Trong vòng 100 ngày thôi, ở đồng bằng này, người ta có thể sản xuất ra 7-8 triệu tấn lúa. Chưa thấy một vùng đồng bằng nào trên thế giới lại có một năng lực sản xuất, gọi là tương đối đặc biệt như vậy. Nếu sức sản xuất của đồng bằng sông Cửu Long bị mai một bởi vì nguồn nhân lực trẻ không còn ở tại chỗ, rồi đất đai bị bạc mầu dần vì không còn được phù sa bồi thêm nữa, rồi nguồn nước thất thường... tất cả những yếu tố đó đe dọa đến một vấn đề rất căn cơ : Làm cho “bao tử” của nước Việt Nam bị đe dọa.

Do đó, nếu nói về sự ổn định của đồng bằng, ngoài yếu tố ổn định về môi trường, chúng ta phải coi sự ổn định năng lực sản xuất của người dân trong vùng này là điều gì đó quan trọng, từ bằng đến hơn sự phong phú của tài nguyên tự nhiên. Vì nếu tài nguyên tự nhiên có phong phú mà không có con người thì cũng không tạo được vật chất. Do đó, phải biết làm sao phải gìn giữ được năng lực sản xuất này và biết làm sao cho người dân, từng gia đình một, người ta sống nổi trên chính mảnh đất của họ, thì đến lúc đó, chúng ta mới duy trì được tính ổn định.

Thành thử ra, nói ổn định ở đây, nói về tương lai gần, tương lai xa, chúng ta thấy rõ ràng là chúng ta đang đối diện với một tương lai rất nhiều vấn đề bất định. Nếu chúng ta không tổ chức, gìn giữ được năng lực sản xuất của người dân trong khu vực này, thì chúng ta sẽ phải đối phó với nhiều rủi ro trong tương lai.

RFI : Nhiều nghiên cứu và diễn đàn khoa học đã cảnh báo rằng ổn định của lưu vực Mêkông không được bảo đảm. Đâu là những nguyên nhân dẫn đến việc các nước trong khu vực vẫn chưa tìm ra được đồng thuận cụ thể ?

TS. Dương Văn Ni : Đây là một vấn đề rất nổi cộm trong quá khứ, đặc biệt trong thời gian gần đây, nó lại nêu ra một vấn đề mang tính toàn cầu hơn. Trước hết, chúng ta thấy đồng bằng sông Cửu Long mỗi một năm xuất khẩu 6-7 triệu và 2-3 triệu tấn tôm cá... Lượng nông sản này phân phối ít nhất cho tầm 40 quốc gia trên khắp thế giới. Như vậy, đồng bằng sông Cửu Long không chỉ sản xuất để phục vụ cho 20 triệu người dân tại đồng bằng, hay là 100 triệu người dân của toàn nước Việt Nam mà nó còn đóng một vai trò quan trọng trong mắt xích kinh tế thế giới.

Do đó, vấn đề của đồng bằng sông Cửu Long phải vượt ra khỏi lưu vực của sông Cửu Long. Và không thấy ra được chuyện này, thì mọi người chỉ lo phát triển phần của mình. Ví dụ Lào có ưu thế phát triển thủy điện. Nhưng khi phát triển thủy điện thì lại gây ra những hệ lụy ở hạ lưu gồm có Campuchia, Việt Nam... Chúng ta thấy rằng Lào chỉ có khoảng từ 6-8 triệu dân, trong khi nội đồng bằng sông Cửu Long thôi đã có 20 triệu dân và có 60-80 triệu dân sống lệ thuộc vào dòng sông này. Dịch bệnh vừa xảy ra, chúng ta thấy rõ là ngành công nghiệp, dịch vụ bị ngưng trệ, thì lượng điện đâu có cần. Có nhiều điện nhưng không có lương thực thực phẩm trong khu vực, thì phải đối diện với rủi ro rất nhiều.

Điểm thứ hai mà chúng ta thấy là vừa rồi, khi dịch bệnh xảy ra, có hàng triệu người từ các thành phố lớn, như Sài Gòn, Bình Dương, Sông Bé... quay trở về đồng bằng sông Cửu Long tránh dịch. Chúng ta đặt tình huống là nếu đồng bằng sông Cửu Long không còn sức để hấp thụ thì mấy triệu người này đi đâu. Chúng ta biết là họ sẽ tìm những chỗ nào có nước, có lương thực để đi, thì đến lúc đó, liệu biên giới giữa các quốc gia còn thực sự yên ổn không hay là nó sẽ tạo ra sự xáo trộn trong khu vực và sự xáo trộn đó luôn luôn tạo ra nguy cơ lớn nhất cho những cộng đồng nào có số lượng ít.

Chính vì vậy, những quốc gia trong lưu vực sông Mêkông phải thấy rằng đây là một vấn đề lệ thuộc lẫn nhau. Thế nhưng, đây lại là một thách thức rất khó, đã bàn từ vài chục năm mà vẫn chưa tìm thấy được một tiếng nói chung. Các quốc gia vẫn thấy phần của mình là quan trọng. Nhưng tôi vẫn tin rằng những đợt xáo trộn dịch bệnh như này cũng làm cho người ta thức tỉnh và nhìn lại tất cả những vấn đề. Hy vọng là sẽ có một tiếng nói, một sự đồng thuận về chia sẻ nguồn nước hợp lý, về gìn giữ hệ sinh thái của sông Mêkông, bởi vì đây là tương lai không phải của một thế hệ mà của nhiều thế hệ tiếp theo.

RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn tiến sĩ Dương Văn Ni, chủ tịch Quỹ Nghiên cứu và Bảo tồn Mekong.


Nguồn: http://www.rfi.fr/vi/vi%E1%BB%87t-nam/20200608-vi%E1%BB%87t-nam-gi%E1%BB%AF-%C4%91%E1%BB%93ng-b%E1%BA%B1ng-s%C3%B4ng-c%E1%BB%ADu-long-nh%E1%BB%9D-ph%C3%A1t-tri%E1%BB%83n-b%E1%BB%81n-v%E1%BB%AFng-v%C3%A0-nh%C3%A2n-l%E1%BB%B1c
0

Một nước Mỹ theo chủ nghĩa xã hội sẽ như thế nào?

Vì sao Donald Trump lồng lộn trước sự phát triển của chủ nghĩa xã hội ở Mỹ? Có phải chủ nghĩa xã hội đã thật sự có chỗ đứng tại Mỹ, và một nước Mỹ theo chủ nghĩa xã hội sẽ như thế nào?


Nguồn: What Would a Socialist America Look Like? / Politico Magazine / 2018/09/03.

Biên dịch: Đoàn Hiểu Linh / Redsvn.net.


Chỉ cách đây một thập kỷ, “chủ nghĩa xã hội” còn là từ bị coi thường trong chính trị Mỹ. Những tranh cãi về giá trị của nó hầu hết chỉ giới hạn trong các blog khó hiểu, các tạp chí chuyên sâu và các đảng chính trị ở bên kia Thái Bình Dương. Tuy nhiên, gần đây, Bernie Sanders, Alexandria Ocasio-Cortez và nhiều chính trị gia khác đã thổi một luồng sinh khí mới vào danh từ này, bổ sung thêm vào các tranh cãi chính trị chính thống một tầm nhìn khác biệt cho nền kinh tế Mỹ. Trước khi hết một nửa nhiệm kỳ, các chính trị gia như Ocasio-Cortez, Rashida Tlaib của Michigans, James Thompson của Kansas đã tự hào xác nhận mình là thành viên của Các nhà Xã hội chủ nghĩa Dân chủ Mỹ (Democratic Socialists of America – DSA), nhóm xã hội chủ nghĩa lớn nhất đất nước này với số thành viên tăng mạnh kể từ chiến dịch chạy đua vào Nhà trắng của Sanders năm 2016.

Đối với độc giả Fox News, đó là những cơn ác mộng, chưa kể những đảng viên Dân chủ thất thường còn sợ sự xa lánh của các cử tri vốn đã quen với chủ nghĩa tiệm tiến (incrementalism) thời hậu Lyndon B. Johnson của đảng này. Tuy vậy, theo một cuộc trưng cầu hồi tháng 8, lần đầu tiên kể từ khi viện nghiên cứu Gallup đặt vấn đề này, đã có nhiều đảng viên dân chủ chấp thuận chủ nghĩa xã hội hơn chủ nghĩa tư bản.

Có phải chủ nghĩa xã hội đã thật sự đến với nước Mỹ, và nó sẽ như thế nào? Tạp chí Politico Magazine đã mời các nhà văn, chuyên gia chính sách, chính trị gia xã hội chủ nghĩa cùng thảo luận. Các câu trả lời của khách mời cũng đa dạng như chính phong trào xã hội chủ nghĩa. Điều tốt nhất mà phong trào này đang phản ánh là những chân trời chính trị mở rộng trong một thế giới mới dũng cảm, thế giới thời hậu Donald Trump.

*

Nếu nó đủ tốt cho những Bắc Âu, nó cũng đủ tốt cho chúng taMatthew Bruenig, người sáng lập Dự án Chính sách của Nhân dân (People’s Policy Project), một viện cố vấn cấp tiến

Có một cách xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Mỹ, đó là sao chép định chế kinh tế ở các nước Bắc Âu như Đan Mạch, Phần Lan, Thụy Điển, Na Uy. Các nước này là những nơi liên tục đứng đầu các bảng xếp hạng toàn cầu về hạnh phúc, phát triển con người và sự thỏa mãn toàn diện. họ có những thị trường lao động mang tính tổ chức cao, các nhà nước phúc lợi chung và tỉ lệ sở hữu vốn tư bản công tương đối cao.

Để chuyển sang định hướng Bắc Âu, nước Mỹ nên thúc đẩy công đoàn hóa hàng loạt trong lực lượng lao động, gia tăng bảo vệ pháp lý trong các điều khoản trọng tài và cho phép công nhân giành được một số ghế trong ban quản trị doanh nghiệp công ty mà họ đang làm việc, như thượng nghị sĩ Elizabeth Warren đã đề nghị gần đây.

Nói về phúc lợi nhà nước, đất nước này nên xây dựng hệ thống bảo hiểm sức khỏe quốc gia, tương tự như đề nghị “Chăm sóc y khoa cho Tất cả” (Medicare for All) của một số đảng viên Dân chủ, kéo dài kỳ nghỉ thai sản của các bậc phụ huy tương lai, trợ cấp cho mỗi trẻ em trong mỗi gia đình 300 USD mỗi tháng, cung cấp miễn phí dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho trẻ nhỏ và trẻ trước tuổi mẫu giáo. Nước Mỹ cũng nên trợ cấp nhà ở cho những người thu nhập thấp và gia tăng phúc lợi tối thiểu cho những quan chức cao cấp về hưu, những người về hưu non vì không còn khả năng làm việc.

Để gia tăng quyền sở hữu công về tư bản, chính phủ nên thiết lập một quỹ của cải xã hội và từ từ lấp đầy quỹ này bằng các tài sản tư bản mua trên thị trường mở. Theo thời gian, lợi nhuận từ quỹ có thể được chia sẻ cho mọi người dân Mỹ như các khoản thanh toán chung, hoặc dùng làm doanh thu chính phủ tổng quát. Chính phủ nên xây dựng ít nhất 10 triệu đơn vị nhà ở xã hội thuộc sở hữu công dành cho nhiều mức thu nhập để gia tăng quyền sở hữu công và thúc đẩy sự gia tăng nguồn cung nhà ở tại các khu vực đô thị đắt đỏ có giới hạn mà nhiều người đang rất cần.

*

Chủ nghĩa xã hội dân chủ là mở rộng sự dân chủDavid Duhalde, quản lý bầu cử cao cấp của Cuộc cách mạng của chúng ta (Our Revolution), một tổ chức phi lợi nhuận cấp tiến lấy cảm hứng từ Bernie Sander

Nội dung quan trọng thường bị bỏ qua về cách thiết lập chủ nghĩa xã hội là sự mở rộng danh sách những người ra quyết định trong xã hội và cách thức họ làm điều đó, trong đó có quyền sở hữu dân chủ tại nơi làm việc. Chủ nghĩa xã hội dân chủ ở Mỹ cũng nói về việc mở rộng dân chủ nhiều như bất kỳ thứ gì khác.

Trong ngắn hạn, cũng như người theo đường lối tự do, những người xã hội chủ nghĩa muốn bảo vệ, gia tăng và mở rộng các dịch vụ xã hội và hàng hóa công. Chúng ta đã làm thế, tuy nhiên, không phải vì những chương trình đó là nhân đạo, mà là để chuyển lên nền dân chủ xã hội, nơi mà cuộc sống của nhân dân ít phải tuân theo các ý muốn bất ngờ của thị trường tự do. Chăm sóc sức khỏe chung và sự đảm bảo công việc, hai ý tưởng mới mẻ mà trong thực tế đang được thảo luận ở Thượng viện tháng 9 vừa qua sẽ chỉ là những bước đầu tiên hướng tới nền dân chủ xã hội.

Thiết lập chủ nghĩa xã hội dân chủ nghĩa là dân chủ hóa quyền sở hữu vốn, cuộc sống cá nhân và công việc của chúng ta. Những người xã hội chủ nghĩa tin rằng, nếu bạn làm việc ở đâu, bạn nên có tiếng nói về cách thức nơi đó hoạt động. Ở cấp độ công ty ngày nay, điều này là khả thi nhờ các công đoàn, các hội đồng công nhân và các ban giám đốc được bầu cử. Ngoài ra, nếu lao động của bạn tạo ra lợi nhuận, trong chế độ chủ nghĩa xã hội, bạn sẽ có cổ phần quyền sở hữu và một tiếng nói dân chủ về cách nơi làm việc của bạn đang hoạt động.

Các hợp tác xã và doanh nghiệp công như Mondragon ở xứ Basque, hợp tác xã Jackson ở Mississippi và Red Emma’s ở Baltimore đem lại cho chúng ta một vài nét sơ lược về các quyền sở hữu kiểu này. Loại hình nền kinh tế được dân chủ hóa sẽ trao quyền tự chủ cho các cộng đồng bị bỏ rơi trong lịch sử, và sẽ là nền tảng của bất kỳ nước Mỹ xã hội chủ nghĩa nào.

*

Hãy gọi nó bằng bất cứ từ gì bạn muốn, nó là việc làm cho các cộng đồng trở nên bình đẳng hơnRashida Tlaib, ứng viên của Đảng Dân chủ tại Quận quốc hội thứ 13 của Michigan

Với tôi, chủ nghĩa xã hội là sự đảm bảo cho các chính sách chính phủ đặt nhu cầu con người lên trước lòng tham của doanh nghiệp và chúng ta xây dựng các cộng đồng nơi mà mọi người đều có một cơ hội để nỗ lực. Tôi kháng cự lại các tên gọi, kể cả những người có thể miêu tả tôi một cách rõ ràng là “cấp tiến”, bởi vì tôi cảm thấy một khi truyền thông bắt đầu định nghĩa bạn, thay vì để cho những hành động của bạn cất tiếng nói, bạn bắt đầu đánh mất đi một chút nào đó hình ảnh “bạn là ai”. Tôi tự hào là một thành viên của Các nhà Xã hội chủ nghĩa Dân chủ Mỹ (DSA) ở Vùng đô thị Detroit bởi vì họ đang làm những điều tương tự như tôi. Có thể kể ra một số việc như: Một mức lương đủ sống cho mọi người, loại bỏ ICE (Abolish ICE – một phong trào chính trị đề nghị loại bỏ cơ quan thực thi hải quan và nhập cư Mỹ) và đảm bảo chăm sóc sức khỏe chung.

Chúng ta đang cố gắng xây dựng những cộng đồng nơi sự giáo dục mà bạn tiếp cận, những công việc bạn có thể có đều không phụ thuộc vào mã bưu chính, chủng tộc hay giới tính của bạn. Mọi người không nhất thiết phải tìm kiếm một đại diện “xã hội chủ nghĩa dân chủ” hay “cấp tiến”, nhưng họ cũng không sợ những từ đó, họ chỉ đang tìm một chiến binh sẽ đặt nhu cầu của họ lên trên lợi nhuận doanh nghiệp và không bao giờ lùi bước. Vì vậy, nếu người khác muốn gọi tôi là một nhà xã hội chủ nghĩa dân chủ dựa trên việc tôi chiến đấu vì lợi ích chung làm cho tất cả chúng ta tốt đẹp hơn, thì điều đó ổn với tôi, nếu không thì chắc chắn tôi sẽ không nói chuyện với họ.

Nhưng tôi định nghĩa bản thân mình qua những thấu kính độc đáo của chính tôi: Tôi là một người mẹ chiến đấu vì công lý cho tất cả. Cuối cùng, tôi đang cố gắng xây dựng các liên minh và truyền cảm hứng cho các nhà hoạt động xây dựng một xã hội nơi mà mọi người ai cũng có cơ hội phát triển. Đó chính là chủ nghĩa xã hội mà tôi hứng thú.

Chủ nghĩa xã hội sẽ là phương thuốc sửa chữa sự tước đoạt có tính hệ thống với người da màu – Connie M. Razza, giám đốc nghiên cứu và chính sách tại Viện cố vấn Demos.

Một nền kinh tế Mỹ công bằng hơn, hay có tính xã hội chủ nghĩa dân chủ hơn, sẽ yêu cầu tái cơ cấu các cấu trúc đã tước đoạt của cải và những nguồn lực khác khỏi các cộng đồng người da màu một cách có hệ thống. Để hiểu rõ những cấu trúc đó, chúng ta có thể nhìn lại hàng trăm năm người châu Âu đã lấy đất từ người Mỹ bản địa và biến người châu Phi thành nô lệ cũng để lấy đất của họ, hoặc có thể nhìn lại chuyện cách đây 10 tháng, Đảng Cộng hòa đã thông qua một dự luật cắt bỏ thuế để làm lợi cho các nhà tài trợ lớn của họ với cái giá phải trả là lợi ích của người nghèo, người lao động (dự luật cải cách thuế được Thượng viện Mỹ thông qua tháng 12/2017 giảm thuế thu nhập cho các cá nhân và gia đình ở mọi cấp độ thu nhập và thuế thu nhập doanh nghiệp từ 35% còn 21% cho tới năm 2026 – Người dịch).

Ngoài ra, một hệ thống mới sẽ điều chỉnh cách cư xử với các doanh nghiệp, công nhận điều gì đã được xem là đúng: Chúng tôi đầu tư vào các doanh nghiệp và cơ sở hạ tầng mà các doanh nghiệp phụ thuộc bởi vì các doanh nghiệp phục vụ chúng tôi. Trong tình hình bãi bỏ quy định và cắt giảm thuế như hiện nay, chúng ta đã chuyển giao quyền lực cho các doanh nghiệp. Luật lệ phù hợp và thuế công bằng giúp các doanh nghiệp dễ dàng tập trung các nguồn lực, dù đó là tiền (với công ty tài chính), điện (với công ty năng lượng), công nghệ, thực phẩm… và phân phối chúng tới nơi chúng thật sự cần đến.

Một điều quan trọng là một tương lai công bằng yêu cầu mọi người đều có tiếng nói bình đẳng trong nền dân chủ Mỹ – sự công bằng trong tiếp cận bỏ phiếu, tự do khỏi mọi rào cản hạn chế thái quá. Nến tài chính công thông minh sẽ giúp các cử tri có thể tham gia một cách có ý nghĩa bằng cách tài trợ cho các ứng viên và cho phép mọi công dân có năng lực đều có cơ hội chạy đua vào các văn phòng. Không nên để sức mạnh đồng tiền giúp những người giàu có thêm nhiều là phiếu. Một nền kinh tế – chính trị công bằng hơn sẽ thừa nhận rằng chỉ có tiếng nói là tiếng nói, và cơ hội để gây ảnh hưởng đến cách tư duy của các đại diện là thông qua sự chắc chắn của các ý tưởng.

*

Xã hội chủ nghĩa dân chủ nghĩa là quyền sở hữu dân chủ với nền kinh tếPeter Gowan, thành viên tổ chức phi lợi nhuận tiến bộ Democracy Collaborative (Cộng tác Dân chủ)

Một chính phủ được bầu chọn một cách dân chủ nên sở hữu những tài sản độc quyền tự nhiên như các tiện ích, vận tải đường sắt, cung cấp các dịch vụ xã hội như chăm sóc sức khỏe, giáo dục, nhà ở, chăm sóc trẻ em, ngân hàng, và xây dựng phúc lợi nhà nước chung loại bỏ đói nghèo thông qua việc đảm bảo thu nhập tối thiểu, hỗ trợ người khuyết tật, người già và gia đình có con nhỏ.

Nhưng chúng ta phải đi xa hơn điều đó. Chúng ta cần khảo sát để thiết lập sở hữu dân chủ trên một nền kinh tế rộng lớn hơn, và loại bỏ sự phụ thuộc của chúng ta vào những ngành công nghiệp lệ thuộc vào sự ô nhiễm và chiến tranh để tồn tại. Cần có các chiến lược cho phép công nhân các ngành nhiên liệu hóa thạch, hàng không, quốc phòng tái sử dụng cơ sở vật chất của họ cho việc sản xuất hữu ích có tính xã hội nhiều hơn.

Một ví dụ là Lucas Plan ở Anh quốc, nơi công nhân thiết kế và xuất bản một “kế hoạch doanh nghiệp thay thế” khả thi, bao gồm việc cấp vốn cho các ngành năng lượng tái chế, vận tải công, công nghệ y tế. Chúng ta cần một cơ chế để chuyển đổi tài sản doanh nghiệp thành các quỹ của cải xã hội định hướng khu vực được kiểm soát bởi các cổ đông đa dạng và có trách nhiệm, những người sẽ dần dần chuyển giao quyền sở hữu ra khỏi những nhóm người vô trách nhiệm để hướng về các tổ chức bao gồm số đông dân chúng.

Một nước Mỹ theo xã hội chủ nghĩa dân chủ sẽ là một xã hội mà ở đó, của cải và quyền lực được phân phối đồng đều rất nhiều, và ít có tội ác, ít sự cô đơn và sự bỏ rơi. Chủ nghĩa xã hội dân chủ nhắm tới sự giải phóng năng lực và sự sáng tạo con người, không chỉ ở Mỹ mà là ở tất cả các quốc gia có giới tư bản bóc lột và xâm chiếm vì lợi nhuận của các tỉ phú ở đất nước chúng ta.
.
*

Đó là việc trao cho mọi người một tiếng nói trong việc ra quyết địnhMaria Svart, giám đốc toàn quốc của tổ chức Những nhà Xã hội chủ nghĩa Dân chủ Mỹ (DSA)

Sức mạnh tập thể là chìa khóa cho hình ảnh của chủ nghĩa xã hội Mỹ, bởi vì chủ nghĩa xã hội dân chủ dựa trên nền tảng quan trọng là: Chúng ta không có bản đồ chi tiết cho con đường này, vì vậy mở rộng nền dân chủ bao gồm tất cả chúng ta vừa là phương tiện vừa là mục đích.

Vấn đề của chủ nghĩa tư bản không chỉ là một hệ thống vận hành bằng tầng lớp tinh hoa giàu có, thèm khát lợi nhuận vốn và luôn đem lại sự bất ổn, hay việc nó bỏ rơi những tầng lớp xã hội nghèo đói trên đường phố. Vấn đề là nó phụ thuộc vào chế độ độc tài của người giàu. Sự khác biệt cơ bản mà chúng ta kỳ vọng ở một xã hội xã hội chủ nghĩa là tất cả chúng ta đều sẽ có tiếng nói trong những quyết định ảnh hưởng đến cuộc đời chúng ta. Nơi làm việc sẽ được sở hữu bởi các công nhân điều hành chúng, hơn là một ông chủ được ủy quyền.

Hệ thống chính trị sẽ có tính dân chủ thật sự hơn là hệ thống được điều hành bởi những người đã mua các chính trị gia. Đời sống gia đình sẽ dân chủ hơn, và sẽ không có ai phải phụ thuộc vào một người kiếm tiền chỉ để sống sót, bởi vì các dịch vụ công như chăm sóc sức khỏe có sẵn cho tất cả mọi người, và được điều hành dưới sự giám sát của cộng đồng. Cuối cùng, đầu tư chính phủ sẽ là dân chủ, hơn là được quyết định bởi các nhà tài trợ doanh nghiệp hay các tay chơi phố Wall. Nói cách khác, khi đó chúng ta sẽ có sự tự do đích thực, trong khi các lựa chọn sẵn có với chúng ta hiện tại lại phụ thuộc vào cảm giác bất chợt của một vài người.

*

Nó đơn giản hơn nhiều: Bảo hiểm xã hộiSamuel Hammond, giám đốc nghiên cứu đói nghèo và phúc lợi ở Viện Cố vấn thị trường tự do Niskanen Center

Gần một thế kỷ sau khi cố Tổng thống Franklin D. Roosevelt ký quyết định thông qua đạo luật An sinh Xã hội (ngày 14/08/1935), đạo luật này vẫn là di sản lâu đời nhất của ông, giúp cho hơn 22 triệu người về hưu thoát khỏi đói nghèo mỗi năm, và bảo vệ thêm hàng triệu người khỏi rủi ro của việc sống lâu hơn số tiền tiết kiệm của họ. Tuy vậy, nhìn chung, chúng ta không xem An sinh Xã hội là “xã hội chủ nghĩa”.

Vì sao chúng ta không nên làm vậy? Không chỉ vì An sinh Xã hội là chi tiêu chính phủ lớn nhất (chiếm 1/3 ngân sách, gần 1.000 tỷ USD mỗi năm), mà còn vì việc thiết lập An sinh Xã hội có nghĩa là, kể cả những tín đồ của chủ nghĩa cá nhân khỏe mạnh nhất nước Mỹ cuối cùng cũng phải tuân thủ nghĩa vụ công dân của anh ta/cô ta.

Thái độ tích cực của doanh nhân Mỹ và một nhà nước đa dạng khổng lồ đến từ việc là đất nước của những người nhập cư, những điều đó có nghĩa là Mỹ sẽ không bao giờ có được thương hiệu uy tín cao về dân chủ xã hội mà ai đó có thể tìm thấy ở Bắc Âu. Tuy nhiên, thành công của An sinh Xã hội đem lại một gợi ý gồm hai từ về cách thức mà nước Mỹ có thể trở nên “xã hội chủ nghĩa” hơn chỉ sau một đêm: Bảo hiểm xã hội.

Bảo hiểm xã hội là tập hợp công các rủi ro mà các thị trường vật lộn để duy trì chúng, từ các điều kiện y tế tồn tại trước khi được bảo hiểm cho đến việc đột ngột mất việc. Nó có thể được thực hiện một cách có hiệu quả bởi bất kỳ chính phủ nào đủ năng lực cắt giảm các chi phiếu. Và trong khi tính quan liêu của các nhà quản trị An sinh Xã hội có thể rất khó chịu, dường như bảo hiểm xã hội tương thích một cách hoàn hảo với thương hiệu đa chủng tộc uy tín thấp của nước Mỹ. Điều này cho thấy là con đường phía trước của các nhà xã hội chủ nghĩa Mỹ không phải là chiếm lấy phố Wall, mà là những con đường ở Hartford, Connecticut – thủ đô ngành công nghiệp bảo hiểm của đất nước này.

*

Hãy quên đi nền dân chủ xã hội. Nước Mỹ đã sẵn sàng cho chủ nghĩa xã hội thật sựJoe Guinan, giám đốc điều hành Next System Project (Dự án Hệ thống kế tiếp) thuộc tổ chức Democracy Collaborative (Hợp tác Dân chủ)

Khi chủ nghĩa xã hội đến Mỹ, nó sẽ không phải là chủ nghĩa xã hội “một cỡ cho tất cả” – dù nó sẽ có những khát vọng và những khía cạnh tổng quát. Nó sẽ được thực hiện từ dưới lên, thay vì áp đặt từ trên xuống, tuân theo các truyền thống tốt nhất của nước Mỹ – có thể thu hút nhiều thí nghiệm đa dạng ở các “phòng thí nghiệm dân chủ” địa phương và nhà nước, giống như New Deal (các chương trình và dự án khôi phục sự giàu có của nước Mỹ trong thời kỳ Đại khủng hoảng kinh tế từ 1933-1935 dưới thời tổng thống Franklin D. Roosevelt).

Nó sẽ có tính dân chủ, phi tập trung hóa và tập thể quyết định (cho phép mọi người đều tham gia quyết định). Nó sẽ cắm rễ vào sự công bằng tình dục, giới tính, chủng tộc, gợi lại câu thơ của Langston Hughes (trong bài thơ Let America be America Again / Để nước Mỹ lại là nước Mỹ) về một vùng đất “chưa bao giờ, nhưng phải là – vùng đất mà mọi người đều tự do”.

Nó sẽ tháo gỡ, thay vì áp đặt một trại cải tạo Mỹ như hiện tại – thể chế bỏ tù hàng loạt theo chủng tộc có tỉ lệ dân số ở tù cao nhất thế giới. Nó sẽ là việc sống một cách an toàn, khôn ngoan và sống tốt trong một cộng đồng đang phát triển, trong sự đoàn kết với muôn loài, thay vì đi quá xa những biên giới sinh thái để theo đuổi việc tích lũy tài chính.

Đây sẽ là chủ nghĩa xã hội thật sự, thay cho nền dân chủ xã hội hay chủ nghĩa tự do, bởi vì nó sẽ xã hội hóa phương tiện sản xuất, mặc dù không phải tất cả các loại hình phương tiện đó đều tập trung trong tay nhà nước. Thay cho của cải tập trung sẽ là sự phân tán quyền sở hữu rộng rãi. Thay cho các thị trường toàn cầu không xung đột sẽ là nền kinh tế địa phương có tính tái luân chuyển, tập thể quyết định, cắm rễ. Thay cho các tập đoàn đa quốc gia bóc lột sẽ là công ty thuộc sở hữu chính quyền, cộng đồng, công nhân. Thay vì tư hữu hóa bán tài sản thì sẽ là vô số các doanh nghiệp công dân chủ. Thay cho việc tạo ra tín dụng tư nhân bởi các ngân hàng thương mại và tài chính nhà đầu tư sẽ là sức mạnh tiềm năng to lớn của các ngân hàng công và tài chính chính phủ tự chủ, những thứ khiến chúng ta nhớ đến Abraham Lincoln và Franklin D. Roosevelt.

*

Một giải pháp thay thế mới mẻ cho hệ thống tư bản chủ nghĩa Mỹ là bất kỳ điều gì nhưng phải tự doThomas Hanna, giám đốc nghiên cứu của Democracy Collaborative (Hợp tác Dân chủ)

Một hình thức chủ nghĩa xã hội thực tiễn ở Mỹ trong thế kỷ 21 sẽ xảy ra khi quyền sở hữu dân chủ thay thế và thế chỗ mô hình doanh nghiệp bóc lột thống trị hiện nay. Không có một hình thức sở hữu dân chủ duy nhất nào là lý tưởng mà có nhiều hình thức đa dạng: Sở hữu nhà nước đầy đủ, sở hữu nhà nước từng phần, sở hữu chính quyền/địa phương, sở hữu nhiều cổ đông, sở hữu công nhân, sở hữu hợp tác người tiêu dùng, sở hữu hợp tác nhà sản xuất, sở hữu cộng đồng và sở hữu tư nhân địa phương bền vững.

Bất chấp mọi tu từ về “thị trường tự do”, hệ thống tư bản chủ nghĩa Mỹ là bất kỳ điều gì ngoại trừ thị trường tự do. Hệ thống đó đã phụ thuộc nặng nề vào liều thuốc chính sách, quy định, sự quản trị chính phủ và những can thiệp đi kèm ở các cấp độ khác nhau – thậm chí trong một số trường hợp còn giống với hoạch định mềm, ví dụ như trong khu vực trang trại.

Một mặt, không thể tránh khỏi việc một số hỗn hợp thị trường và hoạch định sẽ là một đặc điểm của một hệ thống xã hội chủ nghĩa Mỹ, với sự tham gia có tính dân chủ hơn trong việc quyết định các ưu tiên dài hạn ở địa phương, khu vực và quốc gia một cách lý tưởng, ít nhất là lúc ban đầu. Mặt khác, nó sẽ có tính hợp lý cao hơn trong những nỗ lực hướng đến sự phát triển kinh tế công bằng về mặt địa lý, chưa kể việc xoay sở với hiểm họa biến đổi khí hậu đang gia tăng.

*

Một nhà nước phúc lợi hoàn toàn, một thị trường lao động được chuyển hóa và sở hữu nhà nước về các phương tiện sản xuấtRyan Cooper, nhà báo của The Week

Động lực đạo đức cho sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội có thể là chủ nghĩa quân bình lấy từ John Rawls (1921-2002, một nhà triết học chính trị và đạo đức người Mỹ theo truyền thống tự do), chúa Jesus hay bất kỳ ai. Mục đích cơ bản sẽ là sử dụng của cải được phát triển bởi hoạt động tập thể của nền kinh tế đại diện cho toàn bộ dân chúng, bởi vì thật không công bằng khi để một thiểu số tinh hoa ngốn sạch phần thu nhập và của cải cực lớn trong khi hàng triệu người không có tiền hoặc chỉ vừa đủ sống.

Nhìn chung, có ba mục đích chính của chính sách xã hội chủ nghĩa là có ý nghĩa nhất.

Đầu tiên là một nhà nước phúc lợi hoàn toàn mà trong đó nhà nước sẽ nắm bắt từng nhóm người vừa mất việc hoặc không thể làm việc – thất nghiệp, trẻ em, sinh viên, người già, khuyết tật, người cần sự chăm sóc v..v. Khi hoàn thành, nhà nước phúc lợi sẽ loại bỏ động cơ tư bản chủ nghĩa là làm việc do bị đe dọa không có tiền, và thay thế nguy cơ đó bằng lời mời gọi về chỗ làm việc, đào tạo và hơn thế nữa.

Thứ hai, đó sẽ là một thị trường lao động đã chuyển hóa có tính cấp tiến, trong đó hầu như mọi công nhân đều có mặt trong công đoàn, có hợp đồng công đoàn, khác biệt lương giữa lao động phổ thông và có trình độ được thu hẹp mạnh mẽ, và công nhân sẽ nắm từ 33-50% số ghế ban giám đốc doanh nghiệp. Đó là quyền sở hữu nhà nước trực tiếp về phương tiện sản xuất, thông qua việc xây dựng các doanh nghiệp nhà nước có năng suất, quốc gia hóa một số công ty chủ chốt, hoặc biến một số lớn các tổ chức doanh nghiệp thành các quỹ của cải xã hội (như Alaska đã làm).

Điều cuối cùng là cái cơ bản nhất, theo tôi nghĩ, đó là chính sách xã hội chủ nghĩa cần thiết để thật sự đánh đổ sự bất công. Ngày nay, một phần ba tổng thu nhập quốc gia chảy vào tư bản mà quyền sở hữu của nó ngày càng được tập trung vào ít người hơn. Trên thực tế, tất cả mọi sự tăng trưởng 1% thu nhập của top đầu kể từ năm 2000 đều là của tư bản.

*

Thị trường tự do không đủ để giải quyết những vấn đề chúng ta đối mặtSean McElwe, nhà văn và đồng sáng lập tổ chức Data for Progress (Dữ liệu cho Phát triển)

Chủ nghĩa xã hội về cơ bản là một ý tưởng đơn giản, đó là các giá trị dân chủ nên định hướng nền kinh tế của chúng ta hướng tới việc tối đa hóa sự phát triển con người, thay vì tích lũy tư bản. Chúng ta sẽ không bao giờ chấp nhận những quyết định mà chính phủ của chúng ta dành riêng cho người da trắng giàu có, và chúng ta không nên chấp nhận những quyết định về nền kinh tế của chúng ta được thực hiện theo cách đó.

Về mặt lịch sử, nhóm người da trắng giàu có không phải là những người phục vụ tốt nhất cho các lợi ích chung của nhân loại.

Khi nền kinh tế của chúng ta không dân chủ, việc chính phủ có sự dân chủ là một điều bất khả thi. Chúng ta không thể lèo lái xã hội của chúng ta hướng tới sự thỏa mãn tối đa một cách có hiệu quả khi các lợi ích của tư bản được đặt lên trên các lợi ích được chia sẻ của cộng đồng.

Lấy ví dụ về biến đổi khí hậu, một bài toán đơn giản. Các doanh nghiệp lớn nhất của chúng ta có nguồn cung nhiên liệu hóa thạch mà nếu bị đốt cháy sẽ đẩy mật độ carbon toàn cầu lên cao hơn hai lần ngưỡng nguy hiểm. Lựa chọn cũng đơn giản: Nhân loại tồn tại, và các công ty viết giấy xóa nợ, hoặc các công ty duy trì lợi nhuận và sự sống loài người bị tuyệt chủng.

Các nhà xã hội chủ nghĩa khác với các đảng viên Dân chủ tự do như thế nào?

Đầu tiên, các nhà xã hội chủ nghĩa nhận ra rằng chỉ thị trường thôi thì không đủ để giải quyết các vấn đề chúng ta đang gặp phải. Hiện nay, vốn hóa thị trường của một vài công ty nhiên liệu hóa thạch cũng đủ để được ưu tiên hơn ý chí của cả cộng đồng quốc tế chứ không chỉ ý chí của cử tri Mỹ. Hơn nữa, một nền kinh tế phải được đưa ra khỏi những bàn tay thị trường, không chỉ là sản xuất năng lượng mà cả chăm sóc sức khỏe, thông qua liều thuốc xã hội chủ nghĩa hóa.

Thứ hai, những người xã hội chủ nghĩa nhận ra rằng, một nhà nước phúc lợi dựa trên chế độ thực dân không phải là một mục tiêu tiến bộ. Mỹ, theo lưu ý của nhiều chính trị gia dân chủ, là quốc gia giàu nhất thế giới. Sự giàu có đó được xây dựng trên bạo lực tồi tệ và giết chóc trên phạm vi toàn cầu. Đó là nguồn lợi nhuận của đế chế. Một nền chính trị xã hội chủ nghĩa sẽ nỗ lực vì một nền tảng phân phối thu nhập toàn cầu tiến bộ hơn.

Những người xã hội chủ nghĩa tin rằng, nếu không có sự kiểm soát dân chủ với tư bản và sự kết thúc của chế độ thực dân, các mục tiêu của chủ nghĩa cấp tiến sẽ không được hoàn thành. Những người xã hội chủ nghĩa tranh luận rằng chủ nghĩa tư bản không tương thích với dân chủ. Với những ai không đồng ý, chúng tôi đặt ra một câu hỏi đơn giản: Nơi nào sẽ được quét dọn sớm hơn, vốn hóa thị trường của ExxonMobil hay thành phố Miami (thành phố này bị tàn phá nặng nề bởi siêu bão Irma vào tháng 9/2017 – Người dịch)?

ĐOÀN HIỂU LINH / REDSVN.NET
0

Vụ George Floyd hủy hoại những nỗ lực của Mỹ bảo vệ tự do, dân chủ và nhân quyền trên thế giới

Hình ảnh một người Mỹ da đen bị một viên cảnh sát da trắng ghì gáy đến ngạt thở, rồi cái chết của George Floyd dẫn đến bạo động và hỗn loạn lan từ Minneapolis đến nhiều thành phố lớn trên toàn nước Mỹ đang làm « suy yếu nền dân chủ Hoa Kỳ ».


Cố vấn an ninh quốc gia của Nhà Trắng Robert O'Brien hôm 01/06/2020 nêu đích danh Trung Quốc, Iran và trong một chừng mực nào đó là nước Nga, « Những đối thủ của Mỹ sẽ lợi dụng khủng hoảng này để gây thêm chia rẽ nhằm làm suy yếu nền dân chủ của Hoa Kỳ » . Đó là những quốc gia thường xuyên bị Washington chỉ trích trà đạp nhân quyền. Thượng nghị sĩ Marco Rubio, lãnh đạo ủy ban tình báo Thượng Viện Mỹ và là một đồng minh của tổng thống Trump báo động nhiều tài khoản trên các mạng xã hội ít nhiều liên quan đến « ba đối thủ nước ngoài » của Mỹ đang « đổ thêm dầu vào lửa, châm ngòi cho bạo động ».

Ngoại trưởng Iran, Mohammad Javad Zarif không ngần ngại cho rằng hình ảnh George Floyd bị cảnh sát « ghì gáy », gây « áp lực tối đa » phản ánh lối hành xử của chính quyền Trump nhắm vào 80 triệu dân Iran. Tại Matxcơva phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Maria Zakharova mỉa mai cho rằng như thường lệ mỗi lần có vấn đề Mỹ luôn quy trách nhiệm cho Nga, lần này cũng vậy Washington rồi sẽ tìm cách giải thích vụ án mạng dẫn tới bạo động lần này cũng do Nga « xúi giục ».

Nhưng đáng chú ý hơn cả là phản ứng của Bắc Kinh trong bối cảnh Mỹ-Trung tranh hùng trên tất cả mọi lĩnh vực, từ kinh tế, chiến lược, ngoại giao... Biển Đông, Hồng Kông, Đài Loan, Tân Cương, Tây Tạng … Hoa Vi, virus corona hay Tổ Chức Y Tế Thế Giới … là muôn vàn những mặt trận Washington-Bắc Kinh đang đọ sức với nhau. Trung Quốc đã không bỏ lỡ cơ hội xoáy vào « điểm nhậy cảm » của đối phương.

Phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Quốc Triệu Lập Kiên trong hai ngày họp báo liên tiếp đã trở lại với bạo động tại Hoa Kỳ khi nêu lên câu hỏi « Tại sao Washington luôn ca ngợi các cuộc xuống đường ở Hồng Kông nhưng lại xem người biểu tình chống tình trạng phân biệt chủng tộc tại Mỹ là những kẻ bạo loạn ? ».

Cũng ông Triệu kêu gọi Hoa Kỳ « chấm dứt kỳ thị chủng tộc và bảo vệ các cộng đồng thiểu số » trong lúc Quốc Hội lưỡng viện Mỹ đã có dự luật trừng phạt các quan chức Trung Quốc đàn áp người Duy Ngô Nhĩ tại Tân Cương, tố cáo Bắc Kinh « giam giữ tùy tiện, tra tấn và sách nhiễu » cộng đồng thiểu số theo đạo Hồi.

Hình ảnh cảnh sát Mỹ hành hung một George Floyd, hay những người biểu tình ở Minneapolis, và kể cả một số phóng viên Mỹ và quốc tế đến đưa tin, đang vô hiệu hóa những chỉ trích của Washington lên án Bắc Kinh ban hành luật an ninh Hồng Kông. Đạo luật này vừa được Quốc Hội Trung Quốc thông qua hôm 28/05/2020 nhằm « ngăn cản, chận đứng và trừng phạt mọi hành vi đe dọa nghiêm trọng an ninh quốc gia, như các hoạt động ly khai, lật đổ chế độ, khủng bố và sự can thiệp của các lực lượng nước ngoài ».

Điều tai hại hơn nữa, theo phân tích của nhà báo Dorian Malovic, tổng biên tập chuyên về châu Á thuộc báo Công giáo La Croix, lập trường cứng rắn của tổng thống Donald Trump dọa triển khai quân đội để « dẹp loạn », « tái lập trật tự » bằng « luật pháp » vô hình chung « bật đèn xanh » cho ông Tập Cận Bình huy động quân đội đàn áp người biểu tình Hồng Kông, nhất là vào dịp đêm Canh Thức tưởng niệm các nạn nhân Thiên An Môn. Từ năm 1989 tới nay, người dân Hồng Kông luôn tổ chức tưởng niệm phong trào dân chủ Mùa Xuân Bắc Kinh đã bị đàn áp đẫm máu.

Dù vậy như cố vấn an ninh quốc gia Mỹ, Robert O'Brien, ghi nhận khác biệt giữa Trung Quốc với Hoa Kỳ là « viên cảnh sát đã gây ra cái chết cho George Floyd sẽ bị điều tra, truy tố và sẽ xét xử trong một cách công bằng ». Khác biệt thứ nhì quan trọng không kém là « những người Mỹ biểu tình ôn hòa không sợ bị tống giam ».

Không một ai ngây thơ để có thể tin rằng, Iran, Trung Quốc hay Nga chỉ trích chính quyền Trump vì muốn bênh vực những cộng đồng người Mỹ gốc Phi đang bị phân biệt đối xử và kỳ thị. Có điều như cựu tổng thống Barack Obama ghi nhận « sức mạnh của Hoa Kỳ có được bởi nước Mỹ luôn là tấm gương sáng cho thế giới noi theo ». Khủng hoảng lần này và chủ trương của Nhà Trắng đang làm mất uy tín của nước Mỹ trong công cuộc « bảo vệ nhân quyền ».

Nhà cựu ngoại giao có uy tín của Mỹ Richard Haass trên mạng xã hội Twitter lo ngại rằng vụ án mạng George Floyd và dư âm kèm theo tạo cơ hội cho một số quốc gia trên thế giới « thách thức » Hoa Kỳ. Nhưng có lẽ hình ảnh hay uy tín của nước Mỹ ở thời điểm này không phải là ưu tiên của Donald Trump. Ông chỉ theo đuổi một mục tiêu: trong 5 tháng nữa, vẫn giữ được Nhà Trắng. Trên mạng Twitter tổng thống Mỹ viết hàng chữ hoa « 3 Tháng 11 ».


Nguồn: http://www.rfi.fr/vi/ph%C3%A2n-t%C3%ADch/20200603-v%E1%BB%A5-george-floyd-h%E1%BB%A7y-ho%E1%BA%A1i-nh%E1%BB%AFng-n%E1%BB%97-l%E1%BB%B1c-c%E1%BB%A7a-m%E1%BB%B9-b%E1%BA%A3o-v%E1%BB%87-t%E1%BB%B1-do-d%C3%A2n-ch%E1%BB%A7-v%C3%A0-nh%C3%A2n-quy%E1%BB%81n-tr%C3%AAn-th%E1%BA%BF-gi%E1%BB%9Bi
0

[TV 2] Kênh tin tức - Thời sự và âm nhạc ***


Video: Kênh tin tức, thời sự và âm nhạc. Cập nhật tự động,...
0

Về tư duy địa kinh tế – địa chính trị của thế kỷ 21

Không hoạch định được tương lai, người ta có thể trở thành một bộ phận trong tương lai của người khác. Không có con đường nào đi tới tương lai tốt đẹp lại được dẫn dắt bằng một tư duy lạc hậu.


Trích từ ấn phẩm Suy Tưởng của tác giả Nguyễn Trần Bạt, xuất bản năm 2005, NBX Hội Nhà Văn.


Gần ba mươi năm trôi qua kể từ khi chiến tranh kết thúc, khoảng thời gian đủ dài để một đất nước phát triển tới tầm cao mới về chất, nhưng Việt Nam vẫn không thể phát triển, trái lại vẫn mắc kẹt trong những tình thế kinh tế – chính trị bất lợi. Nguyên nhân của tình trạng này có phần rất lớn thuộc về trách nhiệm của công tác hoạch định chiến lược phát triển kinh tế.

Thế giới có nhiều kinh nghiệm tốt, nhiều tấm gương thần kỳ trong phát triển kinh tế, nhưng Việt Nam không thể máy móc làm theo, lý do đơn giản là thời thế đã thay đổi và Việt Nam không giống họ. Chiến lược phát triển kinh tế cũng không thể chạy theo những ảo vọng chính trị, bất chấp thực tế cuộc sống. Một chiến lược phát triển kinh tế hợp lý phải căn cứ vào điều kiện và thực lực của đất nước, đồng thời phải phù hợp với xu thế phát triển chung của thời đại. Với tư tưởng chủ đạo trên, khoa học về địa chính trị và địa kinh tế sẽ là những công cụ quan trọng giúp chúng ta hoạch định được một chiến lược phát triển kinh tế hợp lý và khả thi nhất.

1. Tư duy mới bắt nguồn từ sự thay đổi của Thời đại

Địa kinh tế là khoa học nghiên cứu các đặc điểm địa lý ảnh hưởng đến tiến trình phát triển kinh tế của một vùng, một quốc gia, thậm chí một khu vực. Chẳng hạn, đặc điểm địa lý khu vực Địa Trung Hải tạo ra thế mạnh để phát triển vận tải biển và thương nghiệp của các quốc gia ở khu vực này. Địa chính trị là khoa học nghiên cứu các yếu tố địa lý chi phối xu thế và thái độ chính trị của quốc gia hoặc khu vực. Học thuyết domino chính trị là ví dụ rõ nét về địa chính trị. Học thuyết này đã ám ảnh các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ muốn ngăn chặn ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản lan xuống phía Nam, làm cho Hoa Kỳ ngày càng dính líu và cuối cùng can dự vào cuộc chiến tranh Việt Nam.

Chiến tranh Lạnh kết thúc làm mỗi quốc gia phải thay đổi nhận thức về các giá trị và lợi ích để phù hợp với trật tự thế giới mới. Những tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật làm cho mọi lĩnh vực của đời sống luôn trong trạng thái thay đổi nhanh chóng, nhân tố mới xuất hiện ngày càng nhanh và nhiều khiến cho rất nhiều quan niệm cũ bị phá vỡ hoặc cần phải xem xét lại. Cũng trong trạng thái phát triển mới này của thế giới, nhiều quan niệm địa kinh tế và địa chính trị truyền thống trở nên lỗi thời và cần được thay thế bằng những quan niệm mới phù hợp với thời đại. Để xây dựng những quan niệm mới, trước hết, chúng ta cần nhận dạng đúng xu thế và các nhân tố mới đang quyết định đến tiến trình phát triển của thế giới đương đại.

Thứ nhất, toàn cầu hóa đang trở thành xu thế nổi bật tác động mạnh mẽ đến tiến trình phát triển và đạt được những thành công lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Toàn cầu hóa diễn ra không chỉ trên lĩnh vực kinh tế mà trên mọi lĩnh vực của cuộc sống kể cả văn hóa, chính trị, mang lại cho các quốc gia cơ may phát triển, chia sẻ những kinh nghiệm, ưu thế và cả rủi ro giữa các quốc gia và khu vực. Những thành tựu đầy sức thuyết phục của Trung Quốc kể từ khi nước này mở cửa, sự trì trệ, bế tắc của một số quốc gia biệt lập như Afghanistan, Iraq, CHDCND Triều Tiên… là những ví dụ tương phản rõ nét nhất về ảnh hưởng của toàn cầu hóa đối với mỗi cộng đồng dân tộc.

Thứ hai, các lực lượng đa quốc gia, đặc biệt là công ty đa quốc gia và các công ty nước ngoài có vai trò ngày càng quan trọng đối với mỗi quốc gia mà họ có mặt. Đóng góp của các công ty nước ngoài đối với nền kinh tế của mỗi nước ngày càng lớn. Điều này đúng với cả trường hợp Hoa Kỳ, nền kinh tế phát triển nhất thế giới. Vào năm 1996, các công ty loại này sản xuất 15,8% giá trị sản phẩm hàng hóa tại Hoa Kỳ, tỷ lệ này là 13,2% năm 1988 và chỉ 8,8% năm 1985. Tại Anh, Canada, Thụy Điển cũng có khuynh hướng tương tự. Thậm chí các hãng nước ngoài ở Ireland còn chiếm tỷ lệ cao hơn nhiều, sản xuất ra 66% sản lượng hàng hóa và sử dụng 47% nhân lực của quốc gia này. Những nét phác thảo trên cho thấy, mọi quốc gia, kể cả những quốc gia phát triển nhất, ngày càng lệ thuộc và gắn bó mọi mặt với nhau, và vì vậy, để phát triển, Việt Nam càng không thể đứng ngoài quy luật chung này.

Cuối cùng và đặc biệt quan trọng là, thế giới ngày càng bị ảnh hưởng và chi phối bởi các cường quốc. Trong nửa đầu thế kỷ XXI, các cường quốc vẫn tiếp tục là lực lượng thao túng hệ thống chính trị, kinh tế toàn cầu. Điều đáng lưu ý là, trước đây, các cường quốc tạo ra thế lưỡng cực, còn hiện nay, các cường quốc ảnh hưởng một cách đa chiều đến mức nhiều người nhầm lẫn thế giới phát triển theo xu thế đa cực. Thực ra thế giới không đa cực. Nếu trong nửa đầu thế kỷ này, người Mỹ không cải thiện về mặt văn hóa, không đổi mới chính trị để có thể lãnh đạo thế giới một cách đồng thuận, Hoa Kỳ sẽ không có phẩm chất của một quốc gia lãnh đạo thế giới, có nghĩa là thế giới vẫn trong trạng thái vô cực.

2. Địa kinh tế và địa chính trị – Khoa học của những quan niệm động

Trong thời đại chúng ta không thể tiếp tục nhận thức thế giới theo những quan niệm có tính bất biến, những quan niệm mới về địa chính trị và địa kinh tế mà chúng ta phát triển phải có đặc tính động, phù hợp với đặc điểm cơ bản của thế giới năng động ngày nay.

Thứ nhất, đặc điểm địa chính trị, địa kinh tế của mỗi quốc gia thay đổi theo trình độ phát triển và bối cảnh chung của khu vực và thế giới. Thí dụ, Việt Nam có vị trí liền kề với Trung Quốc, nhưng nếu quốc gia khổng lồ này không tích cực đổi mới như hiện nay mà vẫn trong tình trạng trì trệ của những năm 60 – 70, thì đặc điểm địa chính trị của Việt Nam sẽ được nhìn nhận khác đi trong một bối cảnh khác. Việc xuất hiện những con rồng châu Á như Hồng Kông, Đài Loan và Hàn Quốc làm thay đổi nhiều đặc điểm và tính chất của thị trường khu vực, làm đặc điểm địa kinh tế của khu vực thay đổi, và bởi vậy, nhận định về địa kinh tế của Việt Nam cũng phải thay đổi cho phù hợp với tình hình mới.

Thứ hai, bán kính vùng ảnh hưởng của địa chính trị, địa kinh tế có xu hướng mở rộng trong xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ. Ngày nay, các diễn biến chính trị, kinh tế – xã hội quan trọng nhanh chóng lan tỏa trên mọi miền của thế giới. Trước đây, với Việt Nam, Trung Quốc là láng giềng còn Hoa Kỳ là miền đất rất xa xôi, nhưng quan niệm này nay đã thay đổi cùng với tiến bộ khoa học kỹ thuật của thời đại. Ngày nay, với APEC, với diễn đàn Á – Âu, nhiều quốc gia xa xôi đã trở nên gần gũi với Việt Nam cả về chính trị cũng như kinh tế – xã hội.

Thứ ba, lợi ích quốc gia ngày càng bị đan xen với lợi ích quốc tế khiến cho việc xử lý các vấn đề địa chính trị và địa kinh tế phải đặc biệt cẩn trọng và linh hoạt hơn.Nói đến địa chính trị và địa kinh tế là nói đến lợi ích quốc gia. Trong quá khứ, do sự xâm nhập của các lực lượng quốc tế vào một quốc gia ở mức độ rất hạn chế nên lợi ích quốc gia thường tách biệt, thậm chí đối lập với lợi ích quốc tế.Ngày nay, với sự lên ngôi của các lực lượng đa quốc gia, các lợi ích quốc gia thường đan xen lên nhau đến mức khó phân biệt rạch ròi. Chẳng hạn, khi bất đồng với EU trong vấn đề Iraq, Hoa Kỳ không thể trừng phạt kinh tế các công ty EU vì trong đó có lợi ích của các nhà đầu tư Hoa Kỳ.

Những quan niệm mới trên sẽ giúp chúng ta đánh giá xác thực các ưu thế về địa kinh tế và địa chính trị của Việt Nam, góp phần đưa ra một chiến lược phát triển kinh tế khả thi, linh hoạt, dễ dàng điều chỉnh trước một thế giới năng động, phức tạp và nhiều rủi ro của hiện tại và tương lai.

3. Khai thác ưu thế địa chính trị và địa kinh tế

Vận dụng tư duy mới để hoạch định chiến lược phát triển kinh tế Việt Nam phải kết hợp giữa khai thác triệt để các ưu thế địa chính trị, địa kinh tế của đất nước với việc thực thi một chính sách hợp tác kinh tế quốc tế sáng suốt. Một chiến lược như vậy sẽ có tác dụng thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và xác lập địa vị của Việt Nam trong hệ thống kinh tế – chính trị toàn cầu.

Trước hết, để có một chiến lược phát triển kinh tế đúng, chúng ta phải hiểu mình, hiểu cấu trúc lực lượng xã hội, hiểu trạng thái hiện tại, những gì chúng ta đang có và mục tiêu chúng ta cần vươn tới. Chúng ta đang sống trong những năm đầu của thế kỷ XXI, nhưng về cơ bản Việt Nam vẫn là một nền kinh tế tạo ra rất ít giá trị gia tăng. Việt Nam là một quốc gia không có nhiều truyền thống kinh doanh. Lịch sử Việt Nam thiếu vắng những nhà công thương lớn. Trong thời kỳ đổi mới, Việt Nam đạt được thành tích đáng kể trong nông nghiệp nhưng trên tổng thể, nông nghiệp cũng phơi bày những điểm yếu cơ bản của chúng ta. Hiện nay, 70 đến 80% lực lượng lao động Việt Nam đang làm việc trong khu vực nông nghiệp, ngành kinh tế tạo được rất ít giá trị gia tăng. Chúng ta phải phát triển những ngành kinh tế làm ra nhiều giá trị gia tăng, phải phấn đấu để sao cho trong vòng 15 đến 20 năm tới có được một tỷ lệ lao động như vậy làm việc trong các ngành kinh tế mới này.

Tiếp đó, chúng ta phải hiểu người, tức các quốc gia, các thể chế quốc tế, chấp nhận họ như những đối tác và cũng có thể là đối thủ cạnh tranh. Hiểu để hợp tác và khai thác sức mạnh của các đối tác, hạn chế những thế mạnh của đối thủ cạnh tranh. Nhưng dù là đối tác hay đối thủ, họ đều có ích cho chúng ta và trên những khía cạnh và mức độ khác nhau, họ đều tham gia vào quá trình đổi mới, phát triển của Việt Nam. Hiểu được điều này chúng ta sẽ có thái độ trân trọng và có cách đối thoại, hợp tác có hiệu quả nhất với các đối tác bên ngoài.

Điều cuối cùng, việc khai thác các ưu thế địa chính trị và địa kinh tế luôn phải gắn với xu thế và các nhân tố chủ yếu quyết định đến tiến trình phát triển của thời đại. Vận dụng tư duy mới trong địa kinh tế và địa chính trị, chúng ta có thể tránh được những sai lầm của quá khứ trong công tác hoạch định chiến lược phát triển. Trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế và tự do thương mại bùng nổ như hiện nay, chúng ta không nhất thiết phải làm lại những gì thế giới đã làm mà cần ưu tiên khai thác thế mạnh của mình để chủ động gia nhập quá trình này. Chỉ có như vậy chúng ta mới xác lập được vị trí xứng đáng của Việt Nam trong tiến trình phát triển của nhân loại.

Trong khuôn khổ hạn chế, bài viết này không có tham vọng vạch ra một cách chi tiết, mà chỉ mong muốn đưa ra một phác thảo cơ bản nhất cho chiến lược phát triển kinh tế mới của Việt Nam trong khoảng thời gian 15 đến 20 năm tới.

Phát triển kinh tế mềm để điều chỉnh và thích ứng trong một thế giới thay đổi nhanh chóng và nhiều biến động

Tư duy địa chính trị và địa kinh tế mới cho thấy không thể xây dựng kinh tế theo cấu trúc cứng nhắc và càng không thể phát triển Việt Nam theo hướng công nghiệp hóa. Việt Nam hiện đại hóa mà không cần và không nhất thiết phải công nghiệp hóa. Công nghiệp không phải là một thế mạnh của Việt Nam, hãy để cho Trung Quốc và các nước khác làm công nghiệp. Chủ trương công nghiệp hóa chỉ hướng phát triển kinh tế Việt Nam cho những mục tiêu trong nước mà không thấy được Việt Nam cần phát triển kinh tế để đáp ứng đòi hỏi của thị trường khu vực và thế giới. Nếu phát triển theo hướng công nghiệp hóa, chúng ta sẽ tiếp tục đánh mất những ưu thế về địa kinh tế và địa chính trị của mình. Công nghiệp hóa trong giai đoạn hiện nay không chỉ là sự bất khả thi về vốn đầu tư, mà về bản chất chỉ là sự làm lại những gì thế giới đã làm nhưng luôn thua kém về trình độ, và do vậy, không thể cạnh tranh với các quốc gia công nghiệp đi trước. Công nghiệp hóa sẽ dẫn đến một cơ cấu kinh tế cứng, khó thích ứng và rất khó điều chỉnh trong một thế giới thay đổi nhanh chóng và nhiều biến động.

Việt Nam nên phát triển kinh tế mềm, trở thành một quốc gia cung cấp dịch vụ cho khu vực và thế giới, bởi đất nước ta án ngữ một dải rất rộng vùng Đông Nam á, là cửa ngõ thông ra thế giới của một khu vực rộng lớn từ Lào đến Campuchia, toàn bộ miền Đông – Bắc Thái Lan và miền Bắc Miến Điện. Với việc phát triển kinh tế dịch vụ, Việt Nam sẽ có vị thế quan trọng trong việc hỗ trợ quá trình phát triển tại khu vực. Hạt nhân cấu trúc kinh tế mềm của Việt Nam dựa trên phát triển kinh tế dịch vụ, đặc biệt là du lịch và ngành kinh tế biển. Ví dụ như khu vực Hạ Long, 30 năm trước đây là một trung tâm công nghiệp khai thác mỏ, cung cấp than để công nghiệp hóa đất nước, một thành phố bụi bặm với những con người lầm lũi. Bây giờ, Hạ Long có ngành kinh tế du lịch với Vịnh Hạ Long nổi tiếng và khu nghỉ mát Tuần Châu hiện đại. Du lịch sẽ mang lại nhiều lợi ích hơn than, giúp vùng than đoạn tuyệt với quá khứ lầm than và ngày càng trở nên tươi đẹp

Trục Đông – Tây, con đường hội nhập quốc tế và phát triển nhanh nhất

Trước đây, người Pháp phân chia Việt Nam thành ba kỳ theo trục Bắc – Nam, nhưng với quan điểm địa kinh tế hiện đại, cách phân chia này đã trở nên lạc hậu. Ngày nay, Việt Nam cần phát triển theo hướng Đông – Tây thay vì theo trục Bắc – Nam như cũ. Việt Nam phải phát huy thế mạnh của đất nước có hơn 3000 km bờ biển trong bối cảnh đại dương là một vùng kinh tế được khai thác mạnh mẽ trên quy mô toàn cầu. Vận tải đường biển với chi phí thấp và năng lực chuyển tải lớn sẽ nối thế giới với Việt Nam đi tới các khu vực kém phát triển của các quốc gia láng giềng phía Tây. Phát triển lan truyền theo trục Đông – Tây thể hiện tư tưởng hội nhập quốc tế và tạo ra cơ hội để Việt Nam có thể đạt được tốc độ phát triển nhanh và hiệu quả hơn nhiều so với trục Bắc – Nam.

Việt Nam ở bên cạnh Trung Quốc nhưng thực chất là gần với khu vực lạc hậu của Trung Quốc. Vấn đề đặt ra là Trung Quốc hỗ trợ Việt Nam hay Việt Nam hỗ trợ các vùng lạc hậu của Trung Quốc phát triển? Đại dương mênh mông mở ra cơ hội lớn trong giai đoạn phát triển hiện nay và trong tương lai. Nếu không nhận thức được điều này, tiếp tục phát triển Việt Nam theo trục Bắc – Nam sẽ dẫn đến nhiều sai lầm, kể cả trong việc phân bổ quyền lực bộ máy lãnh đạo. Chiến lược phát triển theo trục Đông – Tây, xây dựng các đô thị ven biển làm hạt nhân và tạo nguồn động lực lan truyền quá trình phát triển tới các vùng sâu của Việt Nam và đi tới các quốc gia láng giềng, sẽ mang lại nhiều cơ may và lợi ích to lớn cho Việt Nam và cả khu vực.

Phát triển theo trục Đông – Tây, với việc mở mang kinh tế biển và vận tải biển, không chỉ giảm bớt sự phụ thuộc của Việt Nam vào Trung Quốc, không những tạo điều kiện cho Việt Nam xâm nhập thị trường Trung Quốc rộng lớn mà còn cải thiện đáng kể khả năng cạnh tranh của kinh tế Việt Nam với nền kinh tế khổng lồ này. Nếu không phát triển theo trục Đông – Tây, Việt Nam không khai thác được các ưu thế về địa kinh tế của mình và càng trở nên bị động và lúng túng trong cuộc cạnh tranh với một nước Trung Quốc có quá nhiều ưu thế. Chỉ khi nào công cuộc cải cách biến Trung Quốc thành một quốc gia phát triển thực sự, tất cả các vùng kinh tế của nước này đạt được trình độ phát triển cao thì trục Bắc – Nam mới tác động tích cực đến sự phát triển của Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay, những hàng hóa có chất lượng quốc tế cũng như nguồn công nghệ cao vào Việt Nam từ phía Đông mà không phải từ phía Bắc, trục Bắc – Nam không những không tác động tích cực, thậm chí còn có nhiều ảnh hưởng tiêu cực. Bởi luồng hàng hóa vào Việt Nam theo trục này thường là hàng hóa của nền công nghiệp hương trấn địa phương với chất lượng thấp và có nhiều biểu hiện vi phạm các quy định thương mại quốc tế.

Thái độ chính trị sáng suốt cho một chiến lược hợp tác kinh tế quốc tế hiệu quả

Trong tư duy địa chính trị và địa kinh tế hiện đại, một chiến lược hợp tác kinh tế hiệu quả phải gắn liền với một đường lối hợp tác chính trị sáng suốt. Bởi vậy, trước tiên chúng ta cần phác thảo những nét chủ yếu để nhận diện các đối tác chính trị quan trọng nhất.

Hoa Kỳ với vai trò cường quốc số một thế giới, luôn quan tâm đến cả thế giới, tuy nhiên, do năng lực không phải là vô hạn, Hoa Kỳ chỉ đặc biệt chú trọng đến một số đối tác và khu vực quan trọng nhất. Trung Quốc đặt trọng tâm những mối quan tâm vào toàn bộ châu á và ngày càng quan tâm hơn đến khu vực ASEAN, nhưng do những vấn đề của chính mình, giữa tham vọng và năng lực của quốc gia này còn là một khoảng cách lớn. Trung Quốc để ý đến Việt Nam nhiều nhất trong số các quốc gia láng giềng phía nam vì những quan hệ vốn có trong lịch sử và vì Việt Nam là một quốc gia với 80 triệu dân, có một vị trí đáng kể trên trường quốc tế. Trung Quốc có thể thông qua Việt Nam để gây ảnh hưởng đến các quốc gia khác trong khối ASEAN. Ngoài ra, còn phải kể đến Nhật Bản, nước cũng có tham vọng trở thành cường quốc khu vực, và do vậy cũng chú ý nhiều đến Việt Nam trong chiến lược Đại Đông á của họ.

Việt Nam không phải là một nước lớn nhưng cũng không bao giờ là một quốc gia nhỏ bé. Trong bảng xếp hạng thế giới, với vị trí thứ 15-16 về dân số và 66 về diện tích, đáng lẽ phải là một quốc gia có ảnh hưởng quan trọng trên trường quốc tế nhưng chúng ta đã phạm phải sai lầm trong phát triển, bỏ lỡ nhiều cơ hội, thời gian và công sức nên Việt Nam vẫn chưa có vị thế tương xứng với tầm vóc của mình.

Chúng ta đang sống trong thời đại của đối thoại và hợp tác quốc tế, nhưng dường như chúng ta vẫn tiếp tục xem quá khứ là đối tác quan trọng nhất. Thế hệ hiện tại thỏa hiệp với những yêu cầu của thế hệ đi trước làm cho sự phát triển của Việt Nam tiến triển rất chậm chạp. Cũng vì ít tham gia đối thoại chính trị quốc tế nên Việt Nam chưa có chính sách hợp tác quốc tế hiệu quả. Hội nhập trong nỗi lo sợ đánh mất mình và diễn đạt sự bảo vệ bản sắc dân tộc, bản sắc văn hóa thành vỏ bọc nhằm bảo tồn cả những yếu tố đã lạc hậu của hệ thống chính trị, làm cho mọi hoạt động chính trị của Việt Nam về cơ bản là đàm phán và thỏa hiệp với quá khứ. Chừng nào chưa thoát khỏi sự chi phối của quá khứ thì Việt Nam vẫn chưa có chính sách hợp tác quốc tế hiệu quả và chúng ta vẫn chỉ là một quốc gia tự náo nhiệt mình.

Chiến lược hợp tác quốc tế sáng suốt và hợp lý nhất của Việt Nam trong vòng nửa đầu thế kỷ XXI là mở cửa sang phương Tây, hợp tác triệt để với Hoa Kỳ, chung sống hòa bình với Trung Quốc. Chúng ta không mong đợi nhiều từ Trung Quốc nhưng hòa bình và hữu nghị với Trung Quốc là điều kiện tối cần thiết để chúng ta có điều kiện tập trung những cố gắng vào phát triển kinh tế. Trong chiến lược hợp tác và cạnh tranh với Trung Quốc, Việt Nam phát triển kinh tế càng khác với Trung Quốc bao nhiêu càng tốt. Trên thế giới này không có một nước nào có thể cạnh tranh với Trung Quốc nếu sản xuất những hàng hóa có đặc tính giống hàng hóa Trung Quốc. Nước Thụy Sĩ nhỏ bé nhưng người Thụy Sĩ sống tốt bên cạnh châu Âu hùng mạnh nhờ dịch vụ ngân hàng và sản xuất những máy móc tinh vi. Kinh nghiệm của người Thuỵ Sĩ chỉ ra cho chúng ta nên sản xuất những gì khác biệt với hàng hóa Trung Quốc, những gì mà đặc tính số đông không là ưu thế. Chỉ có như vậy Việt Nam mới phát triển ổn định và ít rủi ro bên cạnh một nền kinh tế lớn như Trung Quốc.

Không hoạch định được tương lai, người ta có thể trở thành một bộ phận trong tương lai của người khác. Không có con đường nào đi tới tương lai tốt đẹp lại được dẫn dắt bằng một tư duy lạc hậu. Hoạch định chiến lược phát triển là sự quy hoạch tương lai, đòi hỏi nhiều sáng tạo của trí tưởng tượng, tính năng động và sự sáng suốt khoa học. Trong một thời gian dài bị chi phối bởi những tham vọng chủ quan, kinh tế Việt Nam luôn bị đặt vào tình thế bị động, lúng túng đối phó trước thực tế phát triển. Nguyên nhân có phần do chúng ta đã bỏ qua hoặc xử lý thiếu hiệu quả các vấn đề địa chính trị và địa kinh tế khi hoạch định chiến lược phát triển cho đất nước. Không thể dựa vào ảo tưởng chính trị để đưa ra những mục tiêu nhằm tự huyễn hoặc mình và cũng không thể sao chép, lặp lại những kinh nghiệm của các quốc gia đi trước. Trong nhiệm vụ khó khăn và phức tạp này, vận dụng một cách sáng tạo những quan niệm khoa học hiện đại về địa chính trị và địa kinh tế sẽ giúp chúng ta tránh được những sai lầm của quá khứ. Chỉ có sự sáng suốt khoa học mới có thể đưa ra một quyết sách chiến lược phát triển kinh tế hợp lý nhất, con đường đúng đắn và nhanh nhất đi tới tương lai, hội nhập vào trào lưu chung của thời đại. Chính trong quá trình này chúng ta sẽ tìm lại được chính mình, một nước Việt Nam mới, giàu mạnh và phát triển.

S.T

Theo Redsvn
0

Về tư duy địa kinh tế – địa chính trị của thế kỷ 21

Không hoạch định được tương lai, người ta có thể trở thành một bộ phận trong tương lai của người khác. Không có con đường nào đi tới tương lai tốt đẹp lại được dẫn dắt bằng một tư duy lạc hậu.


Trích từ ấn phẩm Suy Tưởng của tác giả Nguyễn Trần Bạt, xuất bản năm 2005, NBX Hội Nhà Văn.
0