kimluc
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thư viện Biển Đông. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thư viện Biển Đông. Hiển thị tất cả bài đăng

Bình luận về chiến lược của VN chống TQ ở biển Đông - LS Hoàng Duy Hùng


"Bà Lê Thị Thu Hằng gián tiếp công nhận có sự lấn sân của Trung Quốc..". Bình luận về chiến lược của VN chống Trung Quốc ở biển Đông - LS Hoàng Duy Hùng từ Houston, Texas, Hoa Kỳ.

Nguồn video: https://www.youtube.com/watch?v=59g1Gvcd--E
0

Bình luận về chiến lược của VN chống TQ ở biển Đông - LS Hoàng Duy Hùng


"Bà Lê Thị Thu Hằng gián tiếp công nhận có sự lấn sân của Trung Quốc..". Bình luận về chiến lược của VN chống Trung Quốc ở biển Đông - LS Hoàng Duy Hùng từ Houston, Texas, Hoa Kỳ.

Nguồn video: https://www.youtube.com/watch?v=59g1Gvcd--E
0

Thương mại, chiến tranh và Biển Đông

Trong vùng biển từng được cho là đã đạt được tiến bộ, một mặt trận đáng lo ngại đang hình thành: làn sóng ngầm liên kết tranh chấp ở Biển Đông với cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung.


Khi đi qua vùng mở rộng của đồng bằng sông Châu Giang, từ Macau đến Hong Kong, đến một lúc nào đó bạn sẽ không thấy đất liền nữa; trước mặt bạn chẳng có gì ngoài biển. Vào ngày 1/8, trong mùa mưa bão, màn mưa di chuyển nhanh chóng khắp vịnh tạo ra cảm giác nhầm lẫn về một vùng đất trống không người ở, mà ở đó trên thực tế lại là khu vực đô thị hóa đông đúc nhất châu Á - cỗ máy công nghiệp thúc đẩy sự trỗi dậy của Trung Quốc, một trong những trung tâm trung chuyển lớn toàn cầu. Các tàu công-te-nơ cỡ lớn, những con lạc đà thời hiện đại, đều đi qua đây. Từ mạn phải của chiếc phà cao tốc, đâu đó xa xa, là một loạt đảo lớn, đảo nhỏ và các bãi đá có tranh chấp – những vệ thần của các tuyến đường biển kết nối thế giới bên ngoài.

Quyền tiếp cận và kiểm soát đồng bằng sông Châu Giang đã giúp xác định rõ lịch sử địa chính trị trong thời hiện đại. Khi các cường quốc phương Tây lần đầu tiên đi vòng quanh châu Phi và thâm nhập phương Đông, họ đã tới đây bằng đường biển. Và cuộc tranh giành ngôi vị bá chủ thế giới – sự toàn cầu hóa cuộc cạnh tranh của loài người – đã được định rõ bởi thương mại chứ không chỉ bởi Chúa hay sự vinh quang. Như Walter Raleigh (tên cướp biển gây kinh hoàng hay một hiệp sĩ được tôn vinh, tùy vào quan điểm của bạn đọc) từng lưu ý: “Bất cứ ai làm chủ biển cả sẽ làm chủ thương mại; bất cứ ai làm chủ thương mại thế giới sẽ làm chủ của cải trên thế giới; và do đó làm chủ chính cả thế giới”.

Do vậy, chẳng có gì ngạc nhiên khi ở những vùng biển này, chúng ta có thể thấy một cách rõ ràng hơn làn sóng ngầm liên kết tranh chấp ở Biển Đông với cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung đang diễn ra.

Một mảnh ghép của Lục địa

John Donne đã nhận định rằng “ Không ai sống đơn độc một mình như một hòn đảo trơ trọi; mỗi người là một mảnh ghép của lục địa, một phần của tổng thể”. Mặc dù phản ánh hoàn cảnh con người, nhưng nhận xét của Donne mở rộng tới tình thế tiến thoái lưỡng nan của Bắc Kinh giữa các vùng biên giới tranh chấp và sự bao vây chiến lược bằng đường biển. Đối với Trung Quốc hiện đại, các cấu trúc địa hình trên biển và chính vùng Biển Đông, do tính thiết yếu và bản năng tự sinh tồn, phải được coi là một mảnh ghép của lãnh thổ quốc gia, một phần của đế quốc lục địa rộng lớn.

Theo các tiêu chuẩn của Hòa ước Westphalia, “đường 9 đoạn” của Trung Quốc là một cách tiếp cận mang tính cách mạng đối với lãnh thổ thuộc chủ quyền. Tuyên bố gây tranh cãi này bao trùm gần như toàn bộ Biển Đông và làm tăng kích thước địa lý của Trung Quốc thêm gần 50%. “Đường 9 đoạn” là câu chuyện lịch sử gần đây, bắt nguồn từ một tấm bản đồ năm 1948 của Trung Quốc trước thời Cộng sản, và được Cộng hòa nhân dân Trung Hoa chính thức phục hồi vào năm 2009 nhằm phản đối Việt Nam và Malaysia nộp báo cáo chung nhằm về khu vực thềm lục địa kéo dài của họ theo Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS).

Tuy nhiên, cơ sở để Trung Quốc khẳng định chủ quyền không phải là luật pháp quốc tế hiện thời hay thậm chí là quyền kiểm soát trong lịch sử đối với Biển Đông. Năm 2016, Tòa trọng tài, được thiết lập theo Phụ lục VII của UNCLOS, đã kết luận rằng Trung Quốc không có cơ sở pháp lý để khẳng định các quyền trong lịch sử đối với những khu vực biển nằm trong phạm vi “đường 9 đoạn”. Sau một quá trình điều tra kéo dài, Tòa trọng tài cũng nhận thấy rằng không có bằng chứng cho thấy trong lịch sử, Trung Quốc đã thực thi việc kiểm soát độc quyền đối với các vùng biển hoặc các nguồn tài nguyên của họ. Thay vào đó, Tòa trọng tài phát hiện ra rằng phần lớn lịch sử hàng hải và thương mại của Trung Quốc ở Biển Đông đơn giản chỉ là sự thực hiện các quyền tự do hoạt động trong vùng biển khơi hiện tại theo luật pháp quốc tế. Hơn nữa, do không có cấu trúc nào trong số cấu trúc địa hình mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền được Tòa trọng tài xem xét – các bãi đá thuộc quần đảo Trường Sa và bãi cạn Scarborough – về mặt kỹ thuật được coi là các “đảo” theo UNCLOS, nên chúng không phải là cơ sở để đưa ra được các tuyên bố chủ quyền hoặc những quyền lợi trên biển, như các vùng đặc quyền kinh tế.

Thay vào đó, “đường 9 đoạn” bắt nguồn từ lợi ích quốc gia ngày càng mở rộng của Trung Quốc trong việc đảm bảo khu vực ngoại vi và quyền tiếp cận của chính nước này đối với các tuyến đường thương mại có ý nghĩa sống còn. Giống như các cường quốc đế quốc đang trỗi dậy trước đây, Trung Quốc phải đối mặt với thách thức của việc liên kết các đường biên giới với tham vọng ngày một lớn và sự thèm khát các nguồn lực và thị trường ngày càng tăng của họ.

Trong trường hợp hiện tại, gần 1/3 số tàu thương mại hàng năm của thế giới đều đi qua Biển Đông. Tám trong số mười cảng công-te-nơ sầm uất nhất thế giới nằm ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Gần 2/3 số tàu vận chuyển dầu của thế giới đi qua Ấn Độ Dương tới Thái Bình Dương, phần lớn trong số đó là tới Trung Quốc vốn phụ thuộc vào năng lượng. Không đảm bảo được quyền tiếp cận hàng hải trên khắp Biển Đông, Trung Quốc không thể chắc chắn về những xu hướng có lợi trong “những sự khác biệt về tỷ lệ tăng trưởng và thay đổi công nghệ” mà đã dẫn tới “những dịch chuyển trong cán cân kinh tế” và kết quả là sự dịch chuyển trong “cán cân chính trị và quân sự” – mà theo Paul Kennedy là động cơ cho tiến trình quá độ trở thành nước lớn.

Không phải chỉ là sự ngẫu nhiên khi chiến dịch xây dựng đảo trắng trợn của Bắc Kinh ở Biển Đông đã bắt đầu một cách nghiêm túc trong cùng năm Trung Quốc vượt Mỹ trở thành quốc gia thương mại lớn nhất thế giới. Kể từ năm 2013, tổ chức Sáng kiến minh bạch hàng hải châu Á báo cáo rằng Trung Quốc đã tiến hành nạo vét và xây dựng đảo nhân tạo chưa từng có tiền lệ ở quần đảo Trường Sa, tạo ra vùng đất mới rộng gần 1.300 hecta, cùng với việc mở rộng đáng kể sự hiện diện của nước này ở quần đảo Hoàng Sa. Bắc Kinh đã phải tự lực giải quyết một mặt trận không an toàn. Lord Curzon, Toàn quyền Anh tại Ấn Độ, đã tóm tắt thách thức ở biên giới như sau: “Nếu những thế lực thù địch và không thân thiện dần tiến đến biên giới, và nấp ngay dưới bức tường của chúng ta, thì chúng ta buộc phải can thiệp vì mối nguy hiểm do đó sẽ lớn dần lên, một ngày nào đó có thể đe dọa tới an ninh của chúng ta”.

Từ lợi thế này, việc Chính quyền Trump gia tăng các hoạt động tự do hàng hải (FONOP) ở Biển Đông có thể đem lại những kết quả ngoài các mục tiêu được tuyên bố là duy trì luật pháp quốc tế và tuyến giao thông biển toàn cầu. Ưu thế hải quân và khả năng sẵn sàng tác chiến của Mỹ cũng có thể được hiểu là một mối đe dọa khiến Trung Quốc không tiếp cận được các thị trường và nguồn cung năng lượng của nước ngoài. Vào tháng 5/2018, lần đầu tiên quân đội Trung Quốc đã cho máy bay ném bom tầm xa hạ cánh xuống đảo Phú Lâm ở Biển Đông, tạo điều kiện hơn nữa cho việc triển khai lực lượng của Bắc Kinh trong khu vực, trong đó tính đến cả những vị trí tiền tiêu của Mỹ. Nếu tình thế tiến thoái lưỡng nan ở Malacca chỉ mang tính lý thuyết, thì điều đáng gợi lại là Nhật Bản đã tấn công Trân Châu Cảng vào năm 1941 sau khi Mỹ quyết định áp đặt lệnh cấm vận thương mại và dầu mỏ đối với Nhật Bản, điều về cơ bản hẳn sẽ làm tê liệt nước này.

Cũng cần cân nhắc những sự không chắc chắn vốn sâu sắc từ trước, và chúng cũng bắt đầu bằng thương mại. Đáng chú ý là, trọng tâm của “đường lưỡi bò” – cụm từ thường dùng để miêu tả đường ranh giới đứt đoạn – bắt nguồn trực tiếp từ cửa sông Châu Giang, điểm đặt chân đầu tiên của các cường quốc phương Tây tới Trung Quốc hơn 500 năm trước.

Thương mại và sự không an toàn

Năm 1513, ngay sau khi một nhà thám hiểm khác người Iberia đặt chân đến châu Mỹ, Jorge Alvares đã tới Quảng Châu vẫy lá cờ của Bồ Đào Nha. Người Bồ Đào Nha cuối cùng đã thành lập Macau, nơi định cư đầu tiên của người châu Âu ở vùng Viễn Đông, đóng vai trò như là một trung tâm thương mại. Tansen Sen kết luận rằng thỏa thuận thương mại Luso-Trung Quốc năm 1554 đã cho phép người Bồ Đào Nha thực sự nắm quyền kiểm soát thị trường trên biển từ bờ biển Malabar đến miền Nam Trung Quốc tới các cảng ở Nhật Bản. Nhưng chẳng bao lâu sau những người khác cũng đã đến, và cuộc chạy đua toàn cầu giành quyền làm chủ các tuyến đường biển trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đột nhiên diễn ra. Cuộc cạnh tranh này sẽ liên quan đến thương mại, chiến tranh, luật pháp quốc tế và sự xói mòn dần chủ quyền của Trung Quốc từ đường bờ biển của nước này.

Chẳng hạn, vào cuối thế kỷ 16, người Hà Lan đã bắt đầu xâm phạm đặc quyền của Bồ Đào Nha tại châu Á. Ngày 25/2/1603, gần Singapore ngày nay, Công ty Đông Ấn của Hà Lan (VOC) đã chiếm con tàu Santa Catarina của Bồ Đào Nha, chất đầy hàng hóa từ các cảng của Macau và Trung Quốc, đang trên đường đến Malacca. Người Hà Lan đã thuê một luật sư trẻ tuổi và có tài tên là Hugo Grotius hợp pháp hóa hành động của họ theo các điều luật chiến tranh. Như một phần trong bản tóm tắt hồ sơ biện hộ của mình, Grotius đã phát hành dưới dạng nặc danh cuốn Mare Liberum (Biển cả tự do), chính thức truyền bá quyền tự do hàng hải. Ông lập luận rằng việc hạn chế quyền giao thương, bằng việc cấm tiếp cận hoặc cản trở hoạt động hàng hải, là nguyên nhân gây ra một cuộc chiến tranh chính nghĩa. Như tác giả đã lưu ý trong những trang viết này, tác động ngầm của những chủ đề này tiếp tục gây ảnh hưởng đến sự phát triển của luật pháp quốc tế, kể cả trong suốt những “cuộc chiến pháp lý” về Biển Đông.

Trong thế kỷ 17, Bắc Kinh đã tìm cách ngăn chặn sự hiện diện ngày càng tăng của phương Tây, do các tập đoàn hàng đầu của thế giới như VOC và Công ty Đông Ấn của Anh thúc đẩy. Đến thế kỷ 18, các cường quốc phương Tây, được khuyến khích bởi sự phát triển nở rộ của Cách mạng Công nghiệp tại Anh, đã bắt đầu nổi giận trước quy chế thương mại nghiêm ngặt theo “chế độ Canton” thông qua các thương lái được lựa chọn ở Quảng Châu. Năm 1793, Đức vua George III đã cử Bá tước George McCartney đi sứ với nhiệm vụ đạt được “thương mại tự do” dựa trên “điều kiện bình đẳng” với Bắc Kinh. Vị công sứ này đã thất bại thảm hại. Theo mô tả của Henry Kissinger, những chỉ thị của nhiệm vụ này nhằm mở ra “cuộc cạnh tranh công bằng trên thị trường” không có khái niệm tương đương trực tiếp ở Trung Quốc vốn theo tư tưởng Khổng Tử. Nhưng những truyền thống mềm dẻo sẽ nhường đường cho ưu thế về công nghệ. Như nhà vua trong tác phẩm của Lin-Manuel Miranda dự đoán: Đại dương trỗi dậy, các đế chế sụp đổ.

Trụ cột cuối cùng trong sức mạnh của Trung Quốc đã sụp đổ với cuộc Chiến tranh Nha phiến vào thế kỷ 19. Phải gánh chịu các vấn đề về cán cân thanh toán – với việc bạc của nước Anh đổ vào và hàng hóa Trung Quốc chảy ra – Công ty Đông Ấn của Anh đã bắt đầu dựa vào nha phiến, phần lớn được trồng tại Ấn Độ, nhằm làm giảm thâm hụt thương mại. Nhận thấy mối đe dọa tới sức khỏe của dân chúng, Bắc Kinh tìm cách chấm dứt việc buôn bán ma túy, nhưng London đã dùng vũ lực để đòi hỏi quyền thương mại tự do. Theo Pankaj Mishra, trong giai đoạn này, “thương mại tự do” dường như không khác gì một lợi ích chung phải được thực thi bằng biện pháp quân sự giống như “dân chủ” trong thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh. Được trang bị công nghệ mới nhất (các tàu thủy chạy bằng hơi nước), người Anh đã phong tỏa Quảng Châu, chiếm giữ Thượng Hải và đe dọa Nam Kinh. Hiệp ước Nam Kinh năm 1842 đã áp đặt các điều kiện cho một Trung Quốc bại trận: mở cửa các cảng mới theo hiệp ước, trong đó có Thượng Hải; bồi thường và thanh toán cho tài sản của Anh bị chiếm giữ (nha phiến); và nhượng lại Hong Kong cho Anh.

Theo chân Anh, các cường quốc phương Tây, trong đó có Mỹ, cũng yêu cầu được đối xử bình đẳng. Nhưng những sự nhượng bộ hơn nữa của Trung Quốc đã không thể ngăn chặn được làn sóng chiến tranh thương mại khác. Đỉnh điểm là Anh đã tiến hành Chiến tranh Nha phiến lần hai vào năm 1856. Văn phòng Sử gia thuộc Bộ Ngoại giao Mỹ tóm tắt hành động này như sau:

“Theo điều khoản tối huệ quốc trong những hiệp ước hiện tại, tất cả các cường quốc nước ngoài hoạt động tại Trung Quốc đều được phép tìm kiếm những sự nhượng bộ như nhau từ Trung Quốc mà Anh đã đạt được bằng vũ lực. Kết quả là, Pháp, Nga và Mỹ liên tiếp ký các hiệp ước với Trung Quốc tại Thiên Tân vào năm 1858… Mặc dù Trung Quốc ký các hiệp ước vào năm 1858, nhưng phải mất thêm 2 năm chiến tranh nữa trước khi Chính phủ Trung Quốc sẵn sàng thông qua chúng và chấp nhận các điều kiện. Cùng với các lực lượng Pháp, người Anh đã tiến vào thành phố và thiêu rụi Di Hòa Viên ở vùng ngoại vi Tây Bắc, nhưng chừa lại Tử Cấm Thành, nơi ở của Hoàng đế Trung Hoa”.

Cái được gọi là “những hiệp ước bất bình đẳng” này đã buộc Trung Quốc phải trao cho người nước ngoài vị thế đặc quyền – sự bảo hộ về mặt pháp lý theo đặc quyền ngoại giao trước quyền tài phán của Trung Quốc – và thừa nhận quyền thương mại và chính trị của các cường quốc bên ngoài. Tóm lại, thông qua các cuộc chiến tranh thương mại và các hiệp ước, Trung Quốc mất quyền chủ quyền đối với lãnh thổ của họ và quyền kiểm soát vận mệnh của mình.

Ảnh hưởng thích đáng của câu chuyện lịch sử này trong cuộc tranh luận hiện tại là một câu hỏi còn bỏ ngỏ. Nhưng theo lời của Edward Said, sẽ là sai lầm nếu bỏ qua sự hiện diện còn rơi rớt lại của chủ nghĩa đế quốc phương Tây tại Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, tác động của nó trong việc “làm thay đổi nhận thức luận” đối với “nhận thức về thời đại của chúng ta”.

Theo câu chuyện kể này, “thế kỷ nhục nhã” đã tiếp tục cho đến năm 1949 với việc thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa vào năm 1949. Hoặc có lẽ sự khôi phục đã diễn ra khi Hong Kong và Macau, những tiền đồn cuối cùng của thực dân, được trao trả cho Trung Quốc lần lượt vào năm 1997 và 1999. Một thời điểm nổi bật khác là năm 2001, khi Trung Quốc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) – ít nhất đó là thực tế mà Tổng thống Mỹ Donald Trump biết rất rõ.

Vạn lý trường thành của Trump

Trong cuộc chạy đua chức tổng thống Mỹ năm 2016, khi dừng chân tại Nam Carolina, Trump lấy làm kiêu hãnh nói rằng “Trung Quốc đã xây dựng một bức tường dài 13.000 dặm từ 2.000 năm trước. Tham vọng của tôi là bức tường của chúng ta phải cao hơn nhiều”. Trong khi Trump mang tiếng xấu vì lời đe dọa của ông xây dựng một bức tường hữu hình ở biên giới, thì những kế hoạch của ông thiết lập một hàng rào thực sự xung quanh nền kinh tế Mỹ thậm chí còn mạnh mẽ hơn. Mục tiêu hàng đầu của bức tường của ông – từ thuế quan tới hạn chế đầu tư, cho đến bảo hộ công nghệ và giới hạn thị thực – là Trung Quốc. Vũ khí được chọn để phản công và triển khai là thương mại.

Chính quyền Trump đã sớm nhiều lần phát đi tín hiệu về kế hoạch của họ thách thức nguyên trạng quan hệ Mỹ-Trung và nền kinh tế toàn cầu. Khi còn là ứng cử viên, Trump đã cam kết chấm dứt “cuộc tấn công kinh tế của Trung Quốc vào công ăn việc làm và của cải của Mỹ” bằng cách thực thi các thỏa thuận thương mại và áp dụng “đòn bẩy” kinh tế để thúc đẩy sự thay đổi. Ngay khi lên nắm quyền, ông đã ban hành Chiến lược an ninh quốc gia miêu tả một cuộc cạnh tranh toàn cầu với Trung Quốc vốn đòi hỏi “Mỹ phải suy nghĩ lại về các chính sách của 2 thập kỷ trước – những chính sách dựa trên giả định rằng sự can dự với các đối thủ và việc đưa họ vào các thể chế quốc tế và thương mại toàn cầu sẽ biến họ trở thành các bên tham gia tử tế và đối tác đáng tin cậy”. Trong chuyến thăm của Trump tới châu Á, ông đã chỉ trích cơ chế của WTO và các thông lệ thương mại của Trung Quốc, và cam kết hành động nhằm đảm bảo “quyền tiếp cận thị trường công bằng và bình đẳng” theo điều kiện ông đưa ra. Sau đó Trump đã nghiên cứu tỉ mỉ và đưa ra thuế quan nhắm mục tiêu vào các chính sách công nghiệp của Trung Quốc trên cơ sở rằng chúng lợi dụng quá mức các nguyên tắc thị trường tự do làm nền tảng cho sự thịnh vượng và đổi mới của Mỹ.

Trong khi chỉ trích kịch liệt ngoại thương, nhập cư và trật tự quốc tế dựa trên nguyên tắc, Trump có nguy cơ khiến Mỹ bị cô lập và làm xói mòn hệ sinh thái độc nhất của Mỹ từng được cho là đã tạo ra sự đổi mới và lợi thế công nghệ cho Mỹ. Bằng việc đóng cửa xã hội cởi mở của Mỹ, Trump có lẽ đã tham lợi trước mắt. Hơn nữa, thay vì phụ thuộc lẫn nhau, các nước có thể theo đuổi những con đường khác biệt với Mỹ. Những đồng minh trên khắp Đại Tây Dương có thể bắt đầu tạo thế cân bằng trước những mối đe dọa từ Trump. Tại đồng bằng sông Châu Giang này, Bắc Kinh đã sắp đặt các kế hoạch nhằm thiết lập “Cụm thành phố vịnh lớn Quảng Đông-Hong Kong-Macau” như là một trung tâm đổi mới và tài chính tích hợp nhằm cạnh tranh với Thung lũng Silicon. Đây là những rủi ro mà Trump dường như có ý định chấp nhận.

Có lẽ là hơn bất kỳ tổng thống Mỹ nào trước đây, Trump đã bóc trần cuộc tranh giành quyền lực làm nền tảng cho thương mại quốc tế, công nghệ và tăng trưởng kinh tế. Về ý nghĩa này, chính sách kinh tế của Tổng thống Mỹ được phản ánh qua việc thâu tóm quyền lực không giấu giếm ở Biển Đông. Sâu sắc hơn, cuộc chiến thương mại của Trump và việc Trung Quốc quân sự hóa Biển Đông thách thức những niềm tin đã có từ lâu trong thời đại Khai sáng về bản chất tử tế của thương mại.

Nhà kinh tế học Ludwig von Mises suy ngẫm: Nếu người thợ may gây chiến với người làm bánh, ông ta từ nay trở đi phải tự mình làm bánh. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu người thợ may quan tâm sâu sắc hơn tới đặc trưng của người làm bánh – quốc tịch, tôn giáo, chủng tộc, bản năng giới tính, hay bản sắc? Điều gì sẽ xảy ra nếu thương mại không chỉ là một hoạt động trao đổi tuyệt vời, mà còn là một căn nguyên của chiến tranh? Phải chăng sự tối ưu Pareto hay thậm chí là hiệu quả Pareto là mục tiêu chung nhất của các mối quan hệ của con người? Hay phải chăng nỗi lo sợ, niềm kiêu hãnh, sự đố kỵ, chủ nghĩa bộ lạc và chủ nghĩa dân tộc là tác nhân có ý nghĩa khi tìm cách xây dựng hòa bình vĩnh viễn?

Những người lạc quan có thể viện dẫn một cách chính đáng những giá trị của một nền hòa bình dân chủ và phân tích định lượng chứng tỏ rằng các nhà nước thương mại ít có khả năng tiến hành chiến tranh hơn. Nhưng kỷ nguyên toàn cầu hóa hiện đại lại không cố định; quan điểm về tương lai thay đổi không ngừng. Từ những vùng nước của đồng bằng sông Châu Giang, điều chúng ta có thể thấy đang hình thành là một mặt trận đáng lo ngại, sự bất đồng thương mại, điều chúng ta từng dễ dàng cho là sự tiến bộ.

Roncevert Ganan Almond là Đối tác và Phó Chủ tịch Tập đoàn Wicks, Washington, D.C. Ông là cố vấn pháp lý cho một số chính quyền ở Châu Á, Châu Âu, Trung Đông, Châu Phi và Mỹ Latin về các vấn đề luật quốc tế. Ông từng là giữ vai trò là cố vấn cho chiến dịch tranh cử tổng thống của Hilary Cliton năm 2018. Bài viết thể hiện quan điểm của tác giả và được đăng trên The Diplomat.

Trần Quang (gt)

Nguồn: http://nghiencuubiendong.vn/nghien-cuu-nuoc-ngoai/7090-thuong-mai-chien-tranh-va-bien-dong
0

Những "giới hạn đỏ" ở Biển Đông

Trong bối cảnh cuộc chiến thương mại vẫn rất căng thẳng, quân đội Mỹ và Trung Quốc gần đây liên tục có các hành động "ăn miếng trả miếng" tại Biển Đông.


Gần đây, tàu khu trục USS Decatur của Mỹ đã đi vào vùng 12 hải lý của thực thể Trung Quốc chiếm đóng để thực hiện chiến dịch tuần tra bảo vệ tự do hàng hải. Tàu khu trục Trung Quốc đã áp sát USS Decatur, hành động bị giới chức Hải quân Mỹ cho là “thiếu an toàn và thiếu chuyên nghiệp”. Trao đổi với hãng tin Reuters hôm 30/9, một ngày sau khi Trung Quốc hủy cuộc đối thoại cấp bộ trưởng quốc phòng với Mỹ - cuộc họp cấp cao thứ hai bị hủy chỉ trong 1 tuần - một quan chức tại Washington nói: “Căng thẳng đang leo thang và có thể gây nguy hiểm cho cả hai phía”.

Vụ va chạm giữa tàu Mỹ và tàu Trung Quốc diễn ra gần quần đảo Trường Sa, cực Nam Biển Đông. Trong khi đó, ở phía Bắc, tại Bãi cạn Scarborough, Mỹ, Philippines, và Trung Quốc cũng đang trong tình trạng căng thẳng và những tranh cãi âm ỉ giữa họ có thể nhanh chóng leo thang nghiêm trọng.

Philippines nắm quyền kiểm soát Bãi cạn Scaborough sau khi giành độc lập vào năm 1946. Tới năm 2012, sau một vụ đối đầu với Philippines, Trung Quốc đã chiếm bãi cạn này và ngăn các ngư dân Philippines tiến vào đầm pá phía trong. Việc Trung Quốc kiểm soát Bãi cạn Scaborough, chỉ cách đảo Luzon của Philippines 130 dặm (hơn 200 km) và cách đảo Hải Nam 400 dặm (gần 650 km), là mối lo ngại thường trực của cả Manila và Washington.

Theo Bryan Clark, nhà nghiên cứu làm việc tại Trung tâm Đánh giá Chiến lược và Ngân sách, với khoảng cách gần với đảo Luzon, “nếu Trung Quốc thiết lập hệ thống tên lửa phòng không và tên lửa đất đối đất tại đây (Bãi cạn Scaborough) như họ đã làm ở nhiều hòn đảo khác tại Biển Đông, họ hoàn toàn có thể tấn công Philippines”. Cựu sỹ quan Hải quân Mỹ này cho rằng đây sẽ là cản trở lớn đối với nỗ lực giành lại quyền kiểm soát Bãi cạn Scaborough của Philippines.

Hơn thế nữa, sự hiện diện về mặt quân sự tại Bãi cạn Scaborough còn cho phép Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng tại Biển Đông. Bãi cạn này sẽ trở thành một góc trong tam giác quyền lực với 2 đỉnh còn lại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, những nơi Trung Quốc đều đã thiết lập các tiền đồn quân sự. Ông Clark cho rằng Trung Quốc có thể dùng các khí tài quân sự trên đất liên để thiết lập một vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) như họ đã làm ở Biển Hoa Đông vào năm 2013, song rìa phía Đông của Biển Đông lại nằm ngoài phạm vi các khí tài này. Ông nói: “Vì vậy, Trung Quốc sẽ xây dựng hạ tầng tại Bãi cạn Scaborough và đặt hệ thống rađa tại đây để thiết lập một ADIZ, từ đó củng cố hơn tuyên bố rằng họ có quyền kiểm soát và giám sát toàn bộ Biển Đông”.

Greg Poling, Giám đốc chương trình Sáng kiến Minh bạch Hàng hải của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế, lại cho rằng với khoảng cách khá gần từ Bãi cạn Scaborough tới các căn cứ quân sự tại Philippines cũng như thủ đô Manila hay Đài Loan, sự hiện diện về mặt quân sự tại đây sẽ giúp ích rất nhiều cho các hoạt động thu thập thông tin tình báo và giám sát hàng hải của Trung Quốc. Ông nói: “Bên cạnh các mục tiêu quân sự... Trung Quốc có lợi ích chính trị khi thiết lập quyền kiểm soát cả vùng trời và vùng biển trong phạm vi đường 9 đoạn, cả trong thời bình và thời chiến”.

Năm 2012, Manila đã đệ đơn kiện Bắc Kinh lên Tòa Trọng tài, và phán quyết được tuyên vào tháng 7/2016 phủ nhận các tuyên bố và yêu sách về chủ quyền, cũng như quyền lịch sử của Trung Quốc, khẳng định Trung Quốc đã xâm phạm quyền của Philippines tại vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia này, bao gồm cả khu vực Bãi cạn Scaborough. Trước khi phán quyết được Tòa Trọng tài tuyên bố, Mỹ phát hiện rằng Trung Quốc đã sẵn sàng cho các hoạt động cải tạo trong khu vực, và Tổng thống Barack Obama từng cảnh báo Chủ tịch Tập Cận Bình về những hậu quả có thể xảy ra nếu nước này tiếp tục tham vọng của mình. Lầu Năm Góc đã gia tăng các hoạt động trong khu vực để răn đe Trung Quốc.

Căng thẳng giữa Trung Quốc và Philippines sau phán quyết đã hạ nhiệt. Tổng thống Rodrigo Duterte, người lên nắm quyền vào tháng 7/2016, theo đuổi chính sách hòa giải trong quan hệ với Bắc Kinh. Tuy nhiên, vào tháng 2/2017, Manila cho biết Trung Quốc đang tìm cách xây dựng tại bãi cạn này, hành động mà Philippines cho là “không thể chấp nhận được”. Một tháng sau, giới chức Trung Quốc vội vã tìm cách phủ nhận những bình luận của một quan chức về hoạt động xây dựng ở Bãi cạn Scaborough, làm dấy lên nhiều câu hỏi về kế hoạch của Bắc Kinh.

Gần đây, giới chức Philippines đã cảnh báo Trung Quốc về những giới hạn ở Scarborough. Ngoại trưởng Alan Peter Cayetano phát biểu hồi tháng 5/2018: "Giới hạn đỏ của chúng tôi là họ không thể xây dựng ở Scaborough”. Theo nhà ngoại giao này, hai giới hạn đỏ khác mà Manila đặt ra là những hành vi của Trung Quốc nhằm vào lực lượng quân đội Philippines tại Bãi Cỏ Mây (Second Thomas) ở quần đảo Trường Sa và các hành vi đơn phương khai thác khoáng sản trong khu vực. Ông cho biết Trung Quốc đã nắm được lập trường của Philippines và thực tế Bắc Kinh cũng có những “giới hạn đỏ” trong khu vực.

Tháng 7 vừa qua, quyền Chánh án Tòa án Tối cao Philippines Antonio Carpio cho rằng Manila cần yêu cầu Mỹ coi Scarborough là khu vục “giới hạn đỏ chính thức”, thừa nhận đây là lãnh thổ hợp pháp của Philippines theo Hiệp ước Phòng thủ chung, với điều kiện ràng buộc là phải hỗ trợ lẫn nhau trong trường hợp bị tấn công. Nhà nghiên cứu Poling bình luận: “Có tin cho rằng đích thân Tổng thống Duterte từng nói rằng việc Trung Quốc xây dựng một hạ tầng kiên cố ở Bãi cạn Scaborough sẽ bị xem là vượt qua giới hạn đỏ của Philippines”. Theo ông, “lựa chọn thực tế duy nhất” mà Philippines có để ngăn Trung Quốc hiện thực hóa mục tiêu này là tận dụng hiệp ước quốc phòng với Mỹ. Ông cho rằng không rõ những điều khoản của hiệp ước có thể được áp dụng với Bãi cạn Scaborough hay không, song “hiệp ước rõ ràng có hiệu lực trong trường hợp lực lượng vũ trang hay tàu của Philippines bị tấn công ở bất cứ đâu tại Thái Bình Dương. Vì vậy Manila có thể đưa tàu Hải quân hoặc của Lực lượng Bảo vệ Bờ biển tới đối phó với các hoạt động của Trung Quốc ở Scarborough … và sau đó đề nghị Mỹ can thiệp nếu Trung Quốc dùng vũ lực”. Ông cho rằng điều này có thể buộc Trung Quốc phải lùi bước.

Cuối tháng 8/2018, cựu sỹ quan Hải quân Mỹ Clark từng nhận định rằng dù Trung Quốc đã kiềm chế các kế hoạch xây dựng tại Bãi cạn, “song họ vẫn duy trì tàu quanh khu vực và chờ thời cơ… Tôi cũng không ngạc nhiên nếu Trung Quốc tái khởi động dự án này vào năm tới… để thăm dò phản ứng của Mỹ và xem xem liệu Washington đã từ bỏ (những đe dọa) hay chưa”. Diễn biến này chắc chắn sẽ buộc Mỹ và Philippines phải hành động. Ông Clark nói: “Nếu Trung Quốc có thể bắt đầu xây dựng một hòn đảo nhân tạo tại đây và lắp đặt các hệ thống vũ khí trên đó mà không vấp phải sự phản đối của Philippines … thì mọi chuyện sẽ kết thúc. Trung Quốc sẽ càng phấn khích với tuyên bố rằng Biển Đông là thuộc về họ”.

Theo “Business insider
Vũ Hiền (gt)

Nguồn: http://nghiencuubiendong.vn/tin-ncbd/7093-nhung-gioi-han-do-o-bien-dong
0

Trung Quốc sẽ làm suy yếu nền kinh tế toàn cầu

Trên thực tế, Trung Quốc đã không thoát khỏi sự sụp đổ năm 2008. Họ chỉ trì hoãn nó – cho đến hiện nay. Do đó, dường như Bắc Kinh đang làm suy yếu nền kinh tế toàn cầu một lần nữa. Lần nay, nạn nhân lớn nhất sẽ là Trung Quốc.


Bắc Kinh sẵn sàng đẩy thế giới vào một cuộc suy thoái khác.

Nền kinh tế Trung Quốc đang gặp khó khăn, tiền tệ và các thị trường của nước này, phản ánh tình trạng bất ổn, đang xáo trộn. Tập Cận Bình không có giải pháp nào. Điều duy nhất ông đang làm là gánh thêm nợ nần.

Đó là điều cực kỳ đáng tiếc vì một Bắc Kinh mắc nợ quá nhiều một lần nữa bắt đầu đẩy thế giới vào suy thoái. Thông qua các chính sách trục lợi, Trung Quốc đã đẩy nhanh cuộc suy thoái toàn cầu vào thập kỷ trước, và dường như họ cũng sẽ gây ra cuộc suy thoái tiếp theo.

Lần trước, người Trung Quốc đã hưởng lợi rất lớn từ sự khốn khổ của toàn thế giới. Lần này, họ sẽ không may mắn như vậy và gần như chắc chắn sẽ trở thành những nạn nhân lớn nhất.

Nhìn bề ngoài, nền kinh tế của Trung Quốc trông có vẻ tốt đẹp. Ngày 16/7, Cục thống kê quốc gia báo cáo rằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đã tăng 6,7% trong Quý II năm 2018, giảm từ mức 6,8% trong Quý I nhưng phù hợp với kỳ vọng.

Tuy nhiên, tỷ lệ tăng trưởng của Trung Quốc không phải là vấn đề, bất kể được báo cáo thế nào. Nước này có một vấn đề căn bản: họ đang nhanh chóng mắc nợ. Nước này đang chịu số nợ có thể gấp 1,5 lần GDP danh nghĩa họ tạo ra – nếu những số liệu GDP chính thức là chính xác.

Tuy nhiên, chúng lại không chính xác. Cục thống kê quốc gia đã báo cáo số liệu GDP ở mức ổn định, điều sẽ là cực kỳ bất thường trong một nền kinh tế hoàn thiện đầy đủ, chưa kể đến một nước đang phát triển như Trung Quốc.

Do đó, bề ngoài, những số liệu của Bắc Kinh là đáng ngờ. Lấy ví dụ năm 2016, Bắc Kinh tuyên bố đạt tỷ lệ tăng trưởng là 6,7%. Giữa năm 2017, Ngân hàng thế giới (WB), đã công bố một biểu đồ cho thấy vào năm 2016, GDP của Trung Quốc tăng 1,1%.

Con số 1,1%, vốn khiến nhiều người bất ngờ, phù hợp với tổng chỉ số chính xác duy nhất đánh giá hoạt động kinh tế của Trung Quốc, tổng lượng tiêu thụ năng lượng chính. Theo các số liệu chính thức, vào năm 2016, tổng lượng tiêu thụ năng lượng chính tăng 1,4%.

Năm 2017, nền kinh tế đã tăng tốc – tiêu thụ năng lượng tăng lên 2,9% - nhưng GDP không thể tăng trưởng ở mức đã công bố là 6,9%.

Mức tăng trưởng thấp làm nổi bật vấn đề dai dẳng của Bắc Kinh: không nền kinh tế nào có thể tiếp tục vô hạn định tạo ra nợ nhanh hơn tạo ra GDP, đặc biệt với tốc độ của Trung Quốc. Ở một thời điểm nào đó, như các nhà kinh tế học sẽ nói, phải có một sự “điều chỉnh”, và một “cuộc khủng hoảng” như phần còn lại trong số chúng ta sẽ mô tả nó. Hơn nữa, sự điều chỉnh, hay cuộc khủng hoảng, phải thật lớn vì nó đã bị trì hoãn quá lâu. Bắc Kinh đã trì hoãn những sự điều chỉnh kể từ cuộc suy thoái năm 2008 có lẽ là với thời kỳ cho vay-chi tiêu lớn nhất trong lịch sử. Trong 5 năm bắt đầu vào năm 2009, các ngân hàng của Trung Quốc đã mở rộng nhiều khoản tín dụng gần tương đương với số tín dụng trong toàn bộ hệ thống ngân hàng của Mỹ, mặc dù vào cuối năm 2008, nền kinh tế Trung Quốc chưa bằng 1/3 quy mô nền kinh tế Mỹ. Hoạt động này tiếp tục diễn ra kể từ cuối nửa thập kỷ đó.

Kết quả là nền kinh tế Trung Quốc trở nên mất cân bằng, những sự mất cân bằng đó trở nên có tính đe dọa, và đất nước này đã tích lũy số nợ đáng kể. Theo Bloomberg, năm 2008, tỷ lệ nợ so với GDP của Trung Quốc, một thước đo tiêu chuẩn cho tính bền vững của nợ, là 141%. Con số đó vốn đã gây lo ngại, nhưng tình hình còn nhanh chóng trở nên xấu đi kể từ đó. Bloomberg cho biết tỷ lệ này đã tăng vọt lên đến 256% vào giữa năm 2017.

Con số này chắc chắn còn cao hơn, đặc biệt là khi tính đến cái gọi là “nợ bí mật” trong hệ thống “ngân hàng ngầm”. Andrew Collier đến từ Trung tâm nghiên cứu Orient Capital có trụ sở tại Hong Kong nói rằng các ngân hàng ngầm quản lý “gần một nửa tổng số tiền ở Trung Quốc”. Tính đến tất cả các khoản nợ này, Collier tin rằng tỷ lệ nợ so với GDP của nước này là khoảng 400%. Một tỷ lệ phần trăm kiểu như vậy cho thấy gánh nặng nợ nần của nước này là vô cùng nặng nề.

Món nợ nặng nề của Trung Quốc là một trở ngại cho tăng trưởng, đặc biệt là vì nhiều khoản đầu tư được thực hiện với những khoản vay này không có hiệu quả. Một số không hiệu quả vì chúng bị hiểu sai hoàn toàn và sẽ vẫn như vậy hoặc vì chúng sẽ chỉ có hiệu quả trong tương lai. Dù thế nào, những khoản đầu tư đó cũng gây ra một vấn đề của hiện tại. Các nhà kỹ trị Trung Quốc có thể làm nhiều điều, nhưng như Fraser Howie, đồng tác giả của cuốn sách “Chủ nghĩa tư bản đỏ: Nền tảng tài chính mong manh của sự trỗi dậy phi thường của Trung Quốc”, nói với tác giả vào tháng 6: “Điều họ không thể làm là biến những khoản đầu tư ngu ngốc trở thành tốt đẹp”.

Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã tìm cách loại bỏ những vấn đề này bằng cách mắc thêm nợ. Thủ thuật đó đã có tác dụng vào cuối những năm 1990, nhưng khối nợ tích lũy giờ đây trở nên nặng nề đến mức làm chậm tăng trưởng và làm lung lay niềm tin.

Trong số những điều khác, những quan ngại về kinh tế đã dẫn đến tình trạng thoái vốn ồ ạt vào năm 2015 và năm 2016, khi theo những ước tính chính xác nhất, dòng chảy vốn ròng ra ngoài vượt mức 2000 tỷ USD. Bắc Kinh đã ngăn chặn dòng chảy ra ngoài, nhưng chỉ bằng những biện pháp kiểm soát vốn hà khắc, chỉ một vài trong số đó được công bố chính thức.

Bất chấp thành công trong việc ngăn dòng vốn chảy ra ngoài, vẫn còn những mối lo ngại. Tháng 10/2017, Chu Tiểu Xuân, khi vẫn là người đứng đầu Ngân hàng nhân dân Trung Quốc, công khai nêu lên khả năng rằng Trung Quốc sẽ gánh chịu “thời điểm Minsky”, thời điểm mà các giá trị tài sản sụp đổ. Đây cũng là nỗi lo lắng của người dân Trung Quốc, những người rõ ràng nghĩ rằng điều gì đó tồi tệ đang đến. Hết khảo sát này đến khảo sát khác cho thấy 1/3 đến 1/2 người giàu Trung Quốc lên kế hoạch rời khỏi đất nước của họ trong trung hạn.

Như những bình luận khác thường của Chu Tiểu Xuân chỉ ra, tình hình của Bắc Kinh vẫn nghiêm trọng. Michael Pettis đến từ Đại học Bắc Kinh đã chỉ ra trong các bình luận tại Diễn đàn Thịnh vượng toàn cầu vào tháng 12/2017 rằng sự khác biệt giữa tình hình Trung Quốc hiện nay và các cuộc khủng hoảng nợ trước đây ở những nước khác là trong các cuộc khủng hoảng trước đó, những sự mất cân bằng về kinh tế không “sâu sắc” và nợ không ở mức “cao” như vậy.

Trung Quốc có thể tránh được tình trạng mất cân bằng và nợ nần lâu hơn các nước khác. Bắc Kinh kiểm soát chặt chẽ mọi thứ từ người đi vay, người cho vay, các thị trường đến tòa án. Tuy nhiên, nền kinh tế không thể tránh khỏi thời điểm then chốt đó khi một sự điều chỉnh diễn ra.

Tại sao? Donald Trump xuất hiện. Cho dù người ta nghĩ Tổng thống Trump bắt đầu một cuộc chiến tranh thương mại hay chỉ phản ứng với cuộc chiến mà Trung Quốc khởi xướng – tác giả bỏ phiếu cho cách hiểu thứ hai – thì ông cũng đang thực hiện những hành động tấn công nền kinh tế Trung Quốc và làm lung lay niềm tin.

Sau một làn sóng mạnh mẽ ban đầu do hoạt động tuyên truyền tạo ra, các học giả và nhà phân tích Trung Quốc đang bắt đầu hiểu ra rằng “chiến tranh thương mại” là một cuộc tranh đấu lâu dài mà đất nước họ không thể duy trì.

Tại sao? Trump nói về các khoản thâm hụt thương mại, nhưng những hành động của chính quyền ông lại tập trung vào công nghệ. Một cuộc cạnh tranh về công nghệ, hơn cả một cuộc chiến tranh thương mại, trông giống như một cuộc tranh đấu cho tương lai. Như Thomas Friedman của tờ New York Times đã viết vào đầu tháng 5, đây không phải cuộc chiến về các loại thuế hay thậm chí là về thương mại; đây là cuộc chiến cho tương lai. Kết luận của Friedman không phải là phân tích của riêng ông mà là những quan điểm từ các nguồn của Trung Quốc. Nhiều người ở Trung Quốc nhìn nhận điều này là, hoặc gần như là, một cuộc tranh đấu để tồn tại. Đúng lúc đó, người Mỹ cũng sẽ nhìn nhận giống như vậy.

Trong bất kỳ tình huống nào, những hành động của Trump cũng đang gây áp lực mạnh mẽ đối với nền kinh tế Trung Quốc. Anne Stevenson-Yang, đồng sáng lập Trung tâm nghiên cứu J Capital có trụ sở tại Bắc Kinh, nói với tờ National Interest: “Tôi thực sự tin rằng quyết tâm của Trump cắt giảm lượng đồng USD đang lưu thông sẽ gây ra một cuộc khủng hoảng cho Trung Quốc, như anh có thể thấy từ lợi suất trái phiếu hiện nay, thị trường chứng khoán A-share (cổ phiếu niêm yết trên sàn Thượng Hải và sàn Thâm Quyến, định giá bằng đồng nhân dân tệ - ND), và giá trị đồng nhân dân tệ. Đây không phải là ý định của Trump mà là một tác động của việc tăng lãi suất, phần nào là chức năng của việc cắt giảm thuế, vì việc vay quá nhiều tiền làm tăng lãi suất, cộng thêm vào điều hẳn sẽ là một sự suy giảm trong thương mại của Mỹ. Lý do giải thích tại sao điều này có thể châm ngòi cho cuộc khủng hoảng nợ đã được dự đoán từ lâu là nền kinh tế Trung Quốc phụ thuộc nhiều vào doanh thu bằng đồng USD để hỗ trợ cho việc mở rộng cung ứng tiền tệ. Không có nó, họ chỉ có thể in thêm tiền, và điều đó gây ra lạm phát”.

Các nhà kỹ trị Trung Quốc có thể đang tiếp cận đến những giới hạn xa hơn của những gì họ có thể in ra để duy trì hoạt động nền kinh tế. Cuối năm 2017, M2 của Trung Quốc, thước đo tiền tệ lưu hành rộng lớn (gồm tiền mặt, tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm – ND) đã lên đến 25.980 tỷ USD, chiếm 202,3% GDP năm 2017. Trong khi đó, M2 của Mỹ vào thời điểm đó là 13.820 tỷ USD, chỉ bằng 71,8% GDP.

Trump đang cắt giảm dòng chảy tiền tệ ngay khi Bắc Kinh cần nó nhất. Trong vài tuần gần đây, Ngân hàng nhân dân Trung Quốc, một ngân hàng thuộc trung ương, đã vội vàng bổ sung thêm tiền mặt. Như Collier nói với tờ The National Interest, nhìn chung các quan chức Trung Quốc nghĩ rằng tình trạng siết chặt gần đây đã đi quá xa và họ cũng đã tìm cách “đối phó với tác động của một cuộc chiến tranh thương mại đối với nền kinh tế”.

Và Trung Quốc, một nước có thặng dư thương mại, đặc biệt dễ bị tổn thương trước một cuộc chiến tranh thương mại. Ngân hàng thế giới ước tính rằng xuất khẩu chiếm 19,8% GDP năm 2017 của Trung Quốc.

Collier không mong đợi một cuộc khủng hoảng tài chính của Trung Quốc, nhưng động thái trong ngắn hạn là bổ sung tín dụng sẽ dẫn đến việc có “thêm các dự án tồi tệ” và do đó là “một nền kinh tế cơ sở yếu kém hơn”.

Bắc Kinh đang trong tình thế khó khăn. Việc bổ sung tín dụng sẽ kích thích nền kinh tế và kiềm chế làn sóng vỡ nợ trái phiếu đang diễn ra. Tuy nhiên, thêm tín dụng sẽ làm suy yếu đồng nhân dân tệ, vốn đã giảm 3,25% so với USD vào tháng 6 và đang tiếp tục sụt giảm. Đồng nhân dân tệ yếu kém hơn dẫn đến dòng vốn chảy ra ngoài.

Đồng thời, Ngân hàng dự trữ liên bang đang tăng lãi suất. Mức lãi suất cao hơn của Mỹ có xu hướng dẫn đến dòng tiền ra khỏi Trung Quốc và vào Mỹ. Đầm lầy mà Trump đang rút cạn chính là Trung Quốc.

Và những hành động của Trump trong lĩnh vực thương mại, cùng với phản ứng của Bắc Kinh, sẽ dẫn đến suy giảm xuất khẩu, do đó sụt giảm lợi nhuận từ xuất khẩu.

Như Stevenson-Yang nói với tác giả, chẳng bao lâu nữa, Bắc Kinh sẽ ở vào vị trí mà họ có thể không có khả năng kiềm chế tình hình. Trong những tháng gần đây, họ đã bảo vệ tiền tệ của mình bằng cách bán đồng USD, và Trung Quốc có lượng dự trữ lớn. Tuy nhiên, số tiền dự trữ đó – chính thức công bố là 3.110 tỷ USD vào cuối tháng 6 – chắc chắn không lớn hay có tính luân chuyển như đã được khẳng định, do đó rốt cuộc chúng có thể tỏ ra không đủ lớn để ngăn chặn tình trạng hoảng loạn.

Bắc Kinh đã kiềm chế được tình hình vào năm 2008. Họ đã kích thích nền kinh tế để tránh một cuộc khủng hoảng do họ tạo ra. Nhiều người nói rằng quy định lỏng lẻo ở Mỹ đã dẫn đến suy thoái toàn cầu, nhưng những người có óc tò mò có thể muốn hỏi lý do tại sao quy định lại thất bại ở một đất nước vốn được biết đến là có hệ thống quy định chặt chẽ.

Câu trả lời là quy định của Mỹ - và các nhà lập pháp - bị lấn át bởi xu hướng thanh khoản toàn cầu. Xu hướng đó là kết quả trực tiếp của việc Trung Quốc, thông qua các chính sách trọng thương, tích lũy thặng dư thương mại và thông qua các chính sách khác giữ phần lớn số tiền mặt có được nhờ đó khỏi tay của người dân Trung Quốc.

Bắc Kinh đã đầu tư những khoản thặng dư đó vào khoản nợ của Mỹ, và do đó, thanh khoản đã tràn ngập Mỹ. Giống như ở Trung Quốc hiện nay, quá nhiều khả năng thanh khoản trở thành các khoản đầu tư không hiệu quả. Trong một giai đoạn “sôi nổi vô lý” – thuật ngữ được cựu Chủ tịch Ngân hàng dự trữ liên bang Alan Greenspan phổ cập – hầu hết tất cả mọi người đều trở nên choáng váng, giống như các nhà đầu tư đã từng trải qua vào những năm 1920.

Mỹ là nước đầu tiên chịu thiệt hại trong cuộc đại suy thoái gần đây nhất. Trong cuộc suy thoái tiếp theo, sẽ đến lượt Trung Quốc. Sau một thập kỷ với các khoản đầu tư yếu kém và kích thích quá mức, Bắc Kinh sẽ không thể né tránh khủng hoảng.

Trên thực tế, Trung Quốc đã không thoát khỏi sự sụp đổ năm 2008. Họ chỉ trì hoãn nó – cho đến hiện nay.

Do đó, dường như Bắc Kinh đang làm suy yếu nền kinh tế toàn cầu một lần nữa. Lần nay, nạn nhân lớn nhất sẽ là Trung Quốc.

Gordon G. Chang là tác giả cuốn “Trung Quốc sắp sụp đổ”. Bài viết được đăng trên The National Interest.

Văn Cường (gt)
0

Về thế và lực quân sự hiện nay của Trung Quốc

Đến nay, bức tranh toàn cảnh về thế và lực quân sự của Trung Quốc đã có những thay đổi đáng chú ý. Tuy lực và thế quân sự của Trung Quốc được cải thiện, nhưng thiếu kinh nghiệm tác chiến thực tế, Trung Quốc sẽ gặp khó khăn lớn khi tiến hành chiến tranh với cường quốc khác. Trong khi đó, Trung Quốc có ưu thế hơn hẳn các nước khu vực.


Tóm tắt

Năm 2015, Trung Quốc thực hiện điều chỉnh chiến lược quốc phòng, nhằm xây dựng quân đội trở nên hùng mạnh bậc nhất thế giới vào dịp kỷ niệm 100 năm Ngày thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (01/10/2049). Cùng năm 2015, Trung Quốc công bố Sách trắng Quốc phòng nêu rõ tăng cường hiện đại hóa quân đội, quốc phòng, đối phó với thách thức an ninh của Trung Quốc đang tăng lên. Năm năm qua, một trong những thay đổi lớn nhất ở Trung Quốc là thay đổi tiềm lực, lực lượng, cơ cấu tổ chức quân đội. Đến nay, bức tranh toàn cảnh về thế và lực quân sự của Trung Quốc đã có những thay đổi đáng chú ý. Tuy lực và thế quân sự của Trung Quốc được cải thiện, nhưng thiếu kinh nghiệm tác chiến thực tế, Trung Quốc sẽ gặp khó khăn lớn khi tiến hành chiến tranh với cường quốc khác. Trong khi đó, Trung Quốc có ưu thế hơn hẳn các nước khu vực.


Trung Quốc tăng cường mạnh mẽ tiềm lực quân sự

Nhờ kinh tế liên tục tăng trưởng từ khi cải cách, mở cửa bốn thập kỷ qua, ngân sách quốc phòng cũng tăng lên. Từ năm 1996, Trung Quốc tăng chi phí quân sự trung bình 11%/năm. Mấy năm gần đây, ngân sách quân sự của Trung Quốc tăng 7,6%.

Tổ chức quân đội Trung Quốc chuyển sang cơ bản giống mô hình quân đội Mỹ. Hệ thống chỉ huy gồm Quân ủy Trung ương, đứng đầu là Chủ tịch Quân ủy (cũng chính là Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đảm nhiệm) có quyền chỉ huy tối cao và tuyệt đối, thông qua Bộ Tổng tham mưu liên hợp (như mô hình Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ) và các Bộ Tư lệnh liên hợp chiến khu, các Tổng bộ.1 Lãnh đạo Trung Quốc nắm toàn quyền kiểm soát các lực lượng vũ trang. Quân đội Trung Quốc đặt công tác xây dựng chính trị, tư tưởng lên hàng đầu, chú trọng sáng tạo phát triển lý luận quân sự mới, loại bỏ quan niệm “một khẩu súng, một đôi chân, ba bát cơm, bốn quả lựu đạn”. Trung Quốc đứng thứ sáu châu Á về quân số tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc.

Trung Quốc thành lập ba Bộ tư lệnh mới.2 Lục quân chuyển từ “phòng ngự khu vực” sang cơ động liên khu vực và toàn cầu, nâng cao khả năng tác chiến liên chiến trường. Hải quân giữ nguyên ba (03) hạm đội và một (01) Sư đoàn thủy quân lục chiến, nhưng tăng lên ba (03) chi đội hộ vệ khu trục cho mỗi hạm đội. Hải quân chuyển trọng tâm từ “phòng thủ ngoài khơi” sang kết hợp với “bảo vệ vùng biển mở”; tăng cường khả năng cơ động và tác chiến liên hợp trên biển. Không quân Trung Quốc chuyển trọng tâm từ phòng thủ lãnh thổ sang tiến công và phòng thủ. Quân chủng hỗ trợ chiến lược được thành lập, trên cơ sở sáp nhập Lực lượng pháo binh II (tên lửa chiến lược), bộ đội tác chiến điện tử (mạng) và bộ đội phát triển vũ khí chiến tranh không gian,3 tăng cường khả năng đánh đòn trả đũa hạt nhân, tiến công tầm trung và tầm xa.

Trung Quốc cắt giảm quân số,4 tiến tới đưa tỉ lệ lục quân so với hải quân, không quân tiếp cận tỉ lệ 4/6 như các nước Mỹ, Anh, Pháp. Nét nổi bật là Trung Quốc cắt giảm quân số lục quân, nhưng tăng quân số hải quân, không quân và tên lửa chiến lược,5 tức tăng quân số ở các đơn vị được trang bị vũ khí công nghệ cao.

Trung Quốc chú trọng đầu tư trang bị, hiện đại hóa, bổ sung trang bị mới, tăng cường đáng kể sức mạnh của quân đội. Ngoài lực lượng đã có,6 năm 2017, hải quân Trung Quốc có thêm 1 tàu sân bay, dẫn đầu công nghệ đẩy cho tàu ngầm. Tháng 3/2017, Trung Quốc bắt đầu đóng tàu đổ bộ tấn công loại lớn. Tháng 6/2017, Trung Quốc hạ thuỷ tàu chiến tân tiến nhất châu Á, tạo bước chuyển lớn trong quá trình hiện đại hóa trang bị hải quân.

Tại Thái Bình Dương, Trung Quốc hoàn tất bồi đắp đảo quy mô lớn trên 7 thực thể;7 nối liền các đảo nhân tạo, phát triển cơ sở hạ tầng, xây dựng 3 đường băng dài 3.300 m, cho phép các máy bay chiến đấu hiện đại hạ cánh, biến chúng thành những “căn cứ dân sự - quân sự” nhằm tăng cường sự hiện diện lâu dài trên Biển Đông. Trung Quốc đạt được thỏa thuận xây dựng cảng nước sâu ở Cô Công (Cam-pu-chia), thời hạn sử dụng là 99 năm, cách Biển Đông vài trăm cây số, có thể trú đậu tàu thuyền có lượng giãn nước đến hàng vạn tấn; tuần dương hạm và tàu sân bay Trung Quốc có thể ghé cảng, từ đây nhanh chóng vươn ra Biển Đông hoặc vươn tới Ấn Độ Dương.

Ngoài Quân chủng Hải quân, Trung Quốc chú trọng xây dựng lực lượng Dân quân biển từ ngư dân, sử dụng tàu đánh cá để tập trận trong vùng tranh chấp. Ngư dân được huấn luyện quân sự, trợ cấp về nhiên liệu và đá trong các chuyến đánh bắt cá, có nhiệm vụ thu thập thông tin về các tàu nước ngoài đi qua Biển Đông, tham gia tìm kiếm cứu hộ, vận chuyển nguyên vật liệu để xây dựng, cải tạo đảo đá hay ngăn chặn tàu nước ngoài trong trường hợp hải quân không tiện can thiệp. Đây là chiến lược “đánh cá, bảo vệ, chiếm giữ và quản lý” - một phần trong chiến lược tổng thể nhằm làm chủ vùng Tây Thái Bình Dương.

Tại Ấn Độ Dương, Trung Quốc mở rộng sự hiện diện quân sự trên đại dương này. Lần đầu tiên, Trung Quốc có căn cứ quân sự ở nước ngoài, trong chủ trương thiết lập chuỗi các căn cứ quân sự ven biển dọc các tuyến đường vận tải từ Trung Quốc sang châu Phi, Trung Đông. Căn cứ quân sự đầu tiên đặt tại Di-bu-ti, nối Biển Đỏ và Vịnh A-đen, gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc tại châu Phi và Ấn Độ Dương, đồng thời còn nhằm ngăn Mỹ hỗ trợ lực lượng cướp biển vùng Sừng châu Phi hoạt động trên tuyến đường giao thông hàng hải quan trọng của Trung Quốc. Trung Quốc hiện đang tham gia vào các dự án cơ sở hạ tầng tại Pa-ki-xtan, Nê-pan, Xri Lan-ca, Mi-an-ma và Man-đi-vơ, thực chất là nhằm mở rộng hoạt động ở Ấn Độ Dương và khống chế Ấn Độ.

Về không quân: tháng 12/2016, Trung Quốc đưa vào biên chế máy bay chiến đấu tàng hình FC-3 thế hệ thứ 5, chấm dứt độc quyền của phương Tây sản xuất loại máy bay này. Tháng 3/2017 Trung Quốc đưa vào sử dụng máy bay chiến đấu tàng hình loại mới nhất J-20, tương đương máy bay tàng hình F-35 của Mỹ.

Lực lượng tên lửa: Trung Quốc liên tục hiện đại hóa tên lửa, tăng cường khả năng răn đe chiến lược. Năm 2017, Trung Quốc đưa vào sử dụng tên lửa mới DF-31AG,9 cải tiến tên lửa phòng không tầm trung DF-16G với độ chính xác hơn. Năm 1996, Trung Quốc mới bắt đầu nghiên cứu phát triển tên lửa đạn đạo thông thường, nhưng tiến bộ nhanh, đến năm 2015, Trung Quốc đã triển khai hơn 1.200 tên lửa đạn đạo (tầm bắn của tên lửa DF-21C bao phủ toàn bộ Đông Nam Á) với độ lệch mục tiêu chỉ vài mét. Tháng 2/2017, Trung Quốc đưa vào biên chế tên lửa đạn đạo có độ chính xác cao, có thể đặt trên các bệ phóng di động và tấn công tất cả tàu chiến, tàu ngầm, căn cứ không quân cách biên giới Trung Quốc 2.000 km,10 đe doạ các căn cứ quân sự của Mỹ đóng ở Nhật Bản, đe dọa Nhật Bản, Đài Loan, Phi-líp-pin.11 Như vậy, khả năng giành quyền kiểm soát trên không, trên biển và mục tiêu tấn công tầm xa của Trung Quốc nâng lên rõ rệt, có thể phòng ngự biển gần hiệu quả.

Một số hạn chế về Lực của Trung Quốc về quân sự

Tuy Trung Quốc liên tục tăng ngân sách quân sự, nhưng đến nay mới đạt khoảng 147,7 tỷ USD, trong khi đó ngân sách quân sự năm 2017 của Mỹ đã lên tới 626 tỷ USD, tức là ngân sách quốc phòng Trung Quốc mới bằng một phần tư chi phí quân sự của Mỹ. Ngân sách này lại phải chi phí cho giảm quân, tăng cường trang bị hiện đại quân đội, nên chi phí cho huấn luyện sẽ bị hạn chế.

Trung Quốc chậm thu hẹp khoảng cách với các cường quốc phát triển về sản xuất những trang bị chủ yếu. Công nghiệp quốc phòng Trung Quốc đứng thứ tư trên thế giới,12 không phải là nước nắm công nghệ gốc, nên hạn chế khả năng nghiên cứu, phát triển các phương tiện chiến đấu chủ yếu như máy bay chiến đấu hay tên lửa không đối không tiên tiến.

Việc tinh giảm biên chế gặp khó khăn về tạo việc làm, bảo đảm phúc lợi xã hội. Chính phủ khó bố trí ngân sách hỗ trợ quân nhân giải ngũ.

Nội trị Trung Quốc gặp không ít thách thức, như khủng bố, xung đột sắc tộc, tôn giáo, vấn đề Hồng Công, Ma Cao... khiến quân đội phải dàn trải nguồn lực để đối phó.

Quân đội Trung Quốc nhìn chung vẫn ít dịp thử thách, thiếu kinh nghiệm tác chiến, năng lực sử dụng vũ khí hạn chế, khả năng tấn công từ xa và kỹ thuật tác chiến chống tàu ngầm còn yếu; chưa phát triển được năng lực tác chiến biển xa đáng tin cậy.

Tương quan về Thế

Một số điểm “thuận lợi” đối với Trung Quốc

Các thách thức an ninh đối với Mỹ hiện không chỉ có ở Đông Bắc Á mà cả ở Đông Nam Á, nơi Mỹ gần như không hiện diện quân sự.13 Trung Quốc sẽ nhiều cơ hội “rảnh rang” hơn để vươn ra làm chủ khu vực.

Nhờ thi hành chính sách đối ngoại láng giềng, Trung Quốc thành công trong việc dùng quan hệ thương mại, viện trợ kinh tế để dành “tình cảm” của nhiều nước ASEAN. Tiềm lực quân sự của Trung Quốc hiện nay vượt xa tất cả các nước khu vực cộng lại.

Hợp tác quốc tế nổi bật nhất đến nay của quân đội Trung Quốc là tập trận với hải quân Nga, rèn luyện khả năng hoạt động ở các vùng biển xa nhằm mục tiêu ngăn chặn Mỹ. Trung Quốc còn mở rộng hoạt động sang Ấn Độ Dương, châu Phi, Địa Trung Hải, Ban-tích, Pri-mô-ri-e.

Một số điểm hạn chế về “Thế quân sự”

Việc thực hiện mục tiêu “cường quân” của Trung Quốc thách thức trực tiếp lợi ích và địa vị của Mỹ, làm cho thách thức an ninh của Trung Quốc tăng lên. Mỹ tăng cường hiện diện, củng cố các liên minh quân sự trong khu vực. Mỹ có căn cứ ở Hawaii, 54.000 quân đóng tại Nhật Bản, 28.500 quân đồn trú tại Hàn Quốc, tăng cường quan hệ quân sự, bán vũ khí cho Đài Loan. Tuy thực hiện chính sách “một Trung Quốc”, nhưng Mỹ vẫn đối xử với Đài Loan như “đồng minh”. Đồng thời, Mỹ lại có kế hoạch triển khai hệ thống đánh chặn tên lửa tầm xa giai đoạn cuối (THAAD) tại Hàn Quốc, đem mối họa đến gần biên giới Trung Quốc hơn, tạo nên thế bao vây, kiềm chế Trung Quốc ở phía Bắc. Mỹ tăng cường quan hệ quân sự với Ấn Độ, Ô-xtrây-li-a, Áp-ga-ni-xtan, tạo thế kiềm chế Trung Quốc ở phía Nam Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương và phía Tây. Biển Đông là môi trường tác chiến thuận lợi cho hải quân và không quân Mỹ khi can thiệp vào eo biển Đài Loan để bảo vệ vùng lãnh thổ này.

Do vậy, việc giành và giữ quyền khống chế Biển Đông trở nên rất quan trọng đối với việc duy trì sức mạnh quân sự của Mỹ ở Đông Á. Mỹ tỏ thái độ cứng rắn trong vấn đề Biển Đông, trong hoạt động ngoại giao cũng như trên thực địa nhằm kiềm chế Trung Quốc, cam kết đảm bảo an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không trên vùng biển này. Ngoài ra, từ năm 2016 tới nay, Mỹ tập trận chung với Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc để tăng cường khả năng phối hợp. Kiểm soát Biển Đông, tranh chấp trên Biển Hoa Đông, tăng cường sức mạnh tổng hợp, Trung Quốc đang tạo nên sức ép, nguy cơ đối với Mỹ, ngăn chặn sự hiện diện quân sự của Mỹ ở Biển Đông. Không những thế, Trung Quốc từng bước ép Việt Nam, Phi-líp-pin và tất cả các nước khác phải chấp nhận yêu sách về Biển Đông của Trung Quốc, buộc các nước ven Biển Đông chạy đua vũ trang, làm cho khu vực thêm bất ổn.

Trong khi Mỹ có trên 60 đồng minh quân sự trên thế giới, thì Trung Quốc gần như không có đồng minh (trừ Triều Tiên và chừng mực nào đó là Cam-pu-chia); Trung Quốc vẫn bị bao vây trong vành đai đảo thứ nhất (từ Nhật kéo xuống Phi-líp-pin và Ma-lai-xi-a); ít kinh nghiệm tác chiến thực tế và chính trị nội bộ bất ổn. Những thách thức này sẽ tiếp tục gây khó khăn cho Trung Quốc.

Nhật Bản nỗ lực hiện đại hóa quân đội và tăng cường các chính sách an ninh, phản ứng nhanh, mạnh đối với việc Trung Quốc triển khai hoạt động “quân sự hóa” ở Biển Đông, tranh chấp quần đảo Senkaku/ Điếu Ngư ở biển Hoa Đông. Nhật Bản lo lắng về các giàn khoan mới do Trung Quốc xây dựng trên vùng biển mà cả hai nước đều tuyên bố là vùng đặc quyền kinh tế. Nhật Bản luôn khẳng định không có tranh chấp vì quần đảo này thuộc chủ quyền của Nhật Bản cả về pháp lý lẫn lịch sử. Trong khi đó, các tàu hải giám Trung Quốc ngang nhiên đi vào vùng lãnh hải của Nhật Bản ở gần quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, khiến một số nhà phân tích dự đoán rằng cuộc tranh chấp này có thể leo thang thành xung đột.
Trung Quốc không chỉ cạnh tranh chiến lược với Mỹ, tranh chấp với Nhật Bản mà còn tranh chấp biên giới với Ấn Độ. Tranh chấp này tồn tại từ khi Ấn Độ mới ra đời. Ấn Độ cho rằng địa vị địa - chính trị của mình ở Nam Á bị Trung Quốc thách thức khi Trung Quốc thúc đẩy toàn diện ý tưởng “Vành đai và Con đường” đi qua khu vực Nam Á và Trung Á gần Ấn Độ.

Cạnh tranh, tranh chấp không chỉ diễn ra giữa Trung Quốc với các nước lớn, mà Trung Quốc còn uy hiếp chủ quyền, an ninh và lợi ích phát triển của các nước có yêu sách chủ quyền ở Trường Sa, làm gia tăng cuộc chạy đua vũ trang ở khu vực, khiến môi trường an ninh Trung Quốc và các nước xung quanh Biển Đông phức tạp hơn.14 Trung Quốc có “truyền thống” dùng vũ lực đánh chiếm các đảo,15 do đó các nước khu vực tỏ lo ngại trước việc Trung Quốc tôn tạo đảo, đá, triển khai tên lửa, quân sự hóa các đảo nhân tạo.

Thay lời kết luận

Từ sau năm 2012, tiềm lực, sức mạnh, cũng như thế quân sự của Trung Quốc cải thiện rõ rệt. Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 19 đặt mục tiêu đến năm 2035 cơ bản thực hiện hiện đại hóa quốc phòng và quân đội; đến giữa thế kỷ XXI, hoàn thành xây dựng quân đội Trung Quốc thành quân đội hàng đầu thế giới. Đây là nhiệm vụ không dễ dàng.

Hiện nay, Trung Quốc gặp không ít thách thức bên trong, lo bất ổn nội trị, sợ bị phong tỏa, sợ không kiểm soát được vấn đề Đài Loan, Hồng Công, Ma Cao, sợ bị láng giềng tấn công trên bộ, sợ có lãnh thổ ly khai, sợ bị ném bom tầm xa, sợ bị tấn công vào các vị trí chiến lược, sợ tình hình leo thang hoặc mất kiểm soát. Bên ngoài, trên các hướng, trừ hướng phía Bắc, đều tồn tại những nguy cơ an ninh; những thách thức này tăng lên cùng với quá trình Trung Quốc vươn lên thành cường quốc khu vực, cường quốc toàn cầu, nên không dễ gì Trung Quốc có thể dành chiến thắng dễ dàng nếu gây ra chiến tranh với các nước lớn. Bên cạnh đó, cạnh tranh Trung - Mỹ gay gắt, “không hòa, không chiến”, không có điểm kết thúc ngay tại khu vực.

Không phải lúc nào cạnh tranh, xung đột giữa cường quốc mới nổi lên và cường quốc đang suy yếu cũng nổ ra chiến tranh. Nhưng với “giấc mộng Trung Hoa” và so sánh lực và thế quân sự Trung Quốc hiện nay với từng nước khu vực, không loại trừ khả năng Trung Quốc xâm lấn, đánh chiếm các đảo của các nước ven Biển Đông. Đây là điều các nước, nhất là các nước nhỏ và trung bình, cần cảnh giác, chuẩn bị lực lượng, phương án để sẵn sàng đối phó./.
Thiếu tướng, PGS, TS. Nguyễn Hồng Quân, Viện Chiến lược Quốc phòng. Bài viết được đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, Học viện Ngoại giao, Số 1 (112) Tháng 3/2018.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Ngoại giao. Về cải cách quân đội Trung Quốc. Báo cáo tháng 12/2015.
2. Quốc vụ viện Trung Quốc. Sách trắng Quốc phòng Trung Quốc. Năm 2015.
3. Robert, Haddick. Fire on the Water: China, America, and the Future of the Pacific, Appapolis: Naval Institute Press. 2014.
4. South China Morning Post, ngày 14/7/2017. http://www.scmp.com/news/china.

1 Bộ Ngoại giao, Về cải cách quân đội Trung Quốc, Báo cáo tháng 12/2015.
2 là Bộ Tư lệnh Lục quân, Bộ Tư lệnh Tên lửa và Bộ Tư lệnh Hỗ trợ chiến lược.
3 Bộ Ngoại giao, Về cải cách quân đội Trung Quốc, Báo cáo tháng 12/2015.
4 Năm 2013, lục quân có 850.000 binh sĩ, hải quân có 235.000 binh sĩ và không quân có 3 98.000 binh sĩ.
5 Theo Sách trắng Quốc phòng Trung Quốc, năm 2013, quân đội Trung Quốc có 1,483 triệu người, trong đó, lục quân 850.000, hải quân 235.000, không quân 398.000 người. Tháng 9/2015, Chủ tịch Tập Cận Bình tuyên bố tiếp tục cắt giảm 13% quân số (khoảng 300.000 quân), hoàn thành vào cuối năm 2017.
6 Trung Quốc đã có 2 tàu sân bay, 75 tàu ngầm, 29 tàu khu trục, 52 tàu hộ vệ, 162 tàu rải, quét thủy lôi, 265 tàu tên lửa, 240 tàu pháo, 98 tàu đổ bộ, 208 tàu bảo đảm và hậu cần. Bên cạnh đó, Trung Quốc có lực lượng không quân, hải quân với 140 máy bay ném bom, rải ngư lôi; 144 chiếc máy bay cường kích Q-5, JH-7, Su-30MK2; 10 máy bay tiêm kích; 31 máy bay trinh sát, tuần tra, chống ngầm; 3 máy bay tiếp dầu (nhằm phục vụ tác chiến xa, lâu); 174 trực thăng và máy bay vận tải; 122 máy bay huấn luyện. Số lượng tàu chiến hiện đại của Trung Quốc chiếm 7 % số lượng tàu nổi, trang bị tên lửa đất đối không tầm ngắn và tầm xa, tên lửa hành trình chống hạm siêu âm và hệ thống tác chiến chống ngầm nâng cấp. Tỷ trọng tàu ngầm tấn công hiện đại hóa của Trung Quốc năm 2010 tăng lên 48%, nay tăng lên 66%.
7 Trong hai năm, Trung Quốc đã bồi đắp các đảo nhân tạo, cải tạo 1.300 hecta đất trên các đảo ở Trường Sa, bằng tất cả các nước xung quanh thực hiện trong vòng 40 năm qua, diện tích rộng gấp 17 lần, không tính diện tích Trung Quốc đã cải tạo quần đảo Hoàng Sa.
8 Máy bay J-20 có tầm bay xa hơn, năng lực cung cấp nhiên liệu lớn hơn và mang được nhiều vũ khí hơn máy bay chiến đấu F-22 và F-35 của Mỹ. Đây là thách thức đối với Hàn Quốc và Nhật Bản.
9 DF-31 AG sử dụng nhiên liệu rắn, có khả năng di chuyển trên đường và có thể được phóng đi từ xe 8 cầu dùng để chuyên chở.So với tên lửa DF-31 và DF-31A, tên lửa DF-31AG có khả năng di chuyển và khả năng tồn tại tốt hơn. Tên lửa DF-31AG cùng với tên lửa DF-31A thể hiện vị thế cường quốc và năng lực quốc phòng của Trung Quốc.
10 Haddick, Fire on the Water: China, America, and the Future of the Pacific, Appapolis: Naval Institute Press.
11 Dẫn theo South China Morning Post, ngày 14/7/2017.
12 Sau Mỹ, Nga và Pháp
13 Năm 1943, Mỹ xác định 66 vị trí chiến lược mà hải quân và không quân Mỹ cần bảo vệ để ngăn chặn các cuộc tấn công từ châu Á - Thái Bình Dương. Về sau, Mỹ lập các căn cứ quân sự trong khu vực đều dựa trên hệ thống 66 vị trí này. Sau Chiến tranh Lạnh, Mỹ điều chỉnh, rút nhiều căn cứ và duy trì chủ yếu ở Đông Bắc Á.
14 In-đô-nê-xi-a tăng cường lực lượng tại quần đảo Natuna, triển khai hệ thống phòng không tối tân nhất, 4 đơn vị đặc nhiệm, trang bị hệ thống phòng không tầm trung trên đảo Pulau Natuna Besar, bố trí thêm 8 máy bay chiến đấu, một phi đội máy bay không người lái đến căn cứ không quân ở thủ phủ quần đảo Natuna; mở rộng hai căn cứ không quân và hải quân tại chỗ, tăng gấp đôi binh lính đồn trú, tới 2.000 quân. Mỹ giúp Phi-líp-pin hiện đại hóa Trung tâm Theo dõi Duyên hải và tăng cường chia sẻ tin tức tuyệt mật giữa Mỹ và Hải quân Phi-líp-pin.
15 Năm 1956 và năm 1974 Trung Quốc dánh chiếm Hoàng Sa, năm 1988 chiếm Johnson South Reef (đá Gạc Ma), Gaven Reef (đá Ga Ven), Hughes Reef (đá Tư Nghĩa) thuộc Trường Sa; năm 1995 Trung Quốc chiếm Mischief Reef (bãi đá Vành Khăn), năm 2012 chiếm bãi đá Scarborought...
0

Trung Quốc đang gian lận trong một trò chơi dối trá

Việc đổ lỗi cho Trung Quốc đe dọa kìm hãm tiến trình toàn cầu hóa thị trường tự do mà không thiết lập được bất cứ thứ gì thay thế cho nó – một cách tiếp cận mà chỉ có thể dẫn đến một vòng luẩn quẩn với hoạt động kinh tế bất thường ngày một gia tăng và xung đột mang màu sắc dân tộc chủ nghĩa là nguyên nhân và kết quả của nhau và đẩy thế giới đi theo một chiều hướng rất nguy hiểm.


Cuộc chiến thương mại là dấu hiệu của việc một hệ thống toàn cầu đã trở nên rất tồi tệ.

Một thái độ mới đối với Trung Quốc đang nhanh chóng được định hình trên mọi khía cạnh của chính trị nước Mỹ. Thượng nghị sĩ Bernie Sanders (chính trị gia độc lập đến từ bang Vermont) nhắc lại các luận điểm của Tổng thống Donald Trump, chỉ trích việc chuyển giao công nghệ của Mỹ cho Trung Quốc và việc đầu tư vào đó. Thượng nghị sĩ có tư tưởng tiến bộ Elizabeth Warren (đảng viên Đảng Dân chủ đến từ bang Massachusetts) đứng về phía cựu Chiến lược gia trưởng của Nhà Trắng Steve Bannon kêu gọi phải có một chính sách “hung hăng”. Các đảng viên Đảng Dân chủ thuộc giới quyền uy như Thượng nghị sĩ Chuck Schumer, lãnh đạo phe thiểu số, đang ủng hộ cuộc chiến thương mại của Trump với Trung Quốc. Những người trung thành ủng hộ thương mại tự do như ban biên tập tạp chí Wall Street Journal và các cơ quan trong bộ máy chính quyền như Hội đồng quan hệ đối ngoại đang tìm điểm chung với các liên đoàn bảo hộ như Liên đoàn công nhân ngành thép và những tổ chức chỉ trích công đoàn như Tổ chức giám sát thương mại toàn cầu. Mặc dù vẫn có những khác biệt đáng kể về chính sách và chiến lược, nhưng mọi người dường như đều nhất trí rằng Trung Quốc đang tiến hành hoạt động thương mại theo kiểu trục lợi gây tổn hại đến công việc kinh doanh và lao động ở Mỹ, và đã đến lúc cần phải đối đầu.

Điều gây tò mò là không có bất kỳ phân tích nào về động lực của chính sách Trung Quốc trong những cuộc tranh luận này. Thay vào đó, chúng ta lại thấy một hình ảnh thô kệch về việc những người Trung Quốc dối trá quyết tâm lợi dụng những người Mỹ ngây thơ. Như Thượng nghị sĩ bang Oregon Ron Wyden, đảng viên cấp cao của Đảng Dân chủ thuộc Ủy ban tài chính Thượng viện, đã phát biểu tại một phiên điều trần vào tháng 3/2018: “Trung Quốc đã đánh cắp tài sản trí tuệ của chúng ta, o ép các công ty của Mỹ cho đến khi họ tiết lộ bí mật thương mại của họ, và thao túng các thị trường của mình một cách chiến lược nhằm cướp lấy công ăn việc làm và các ngành công nghiệp của Mỹ”. Hay như Thượng nghị sĩ đảng Cộng hòa John Cornyn thuộc bang Texas đã nói: “Đơn giản là chúng ta không thể để Trung Quốc làm xói mòn lợi thế an ninh quốc gia của chúng ta bằng cách né tránh luật pháp của chúng ta và khai thác các cơ hội đầu tư vì những mục đích bất chính”.

Hình ảnh này phản ánh theo những cách đáng lo ngại lịch sử lâu dài của chủ nghĩa phân biệt chủng tộc bài Trung Quốc ở Mỹ. Và giống như việc những người Trung Quốc nhập cư vào thế kỷ 19 bị đổ lỗi là nguyên nhân dẫn đến sự bất lực của chủ nghĩa tư bản thị trường tự do trong việc tạo ra sự thịnh vượng được chia sẻ rộng rãi, Trung Quốc giờ đây cũng bị đổ lỗi là nguyên nhân khiến cho tiến trình toàn cầu hóa thị trường tự do không đạt được sự tăng trưởng mang tính tổng hòa.

Sự đối đầu mới xuất hiện với Trung Quốc chỉ là dấu hiệu gần đây nhất cho thấy rằng một điều gì đó đã trở nên rất tồi tệ trong nền kinh tế toàn cầu. Những người chỉ trích Trung Quốc không sai khi cho rằng Mỹ và Trung Quốc hiện đang bị kẹt trong một cuộc cạnh tranh được mất ngang nhau vì sự tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, vấn đề không phải là Bắc Kinh mà là bản thân cấu trúc kinh tế toàn cầu. Khi người ta ngày càng thấy rõ rằng hình thức toàn cầu hóa hiện tại không còn khả năng thúc đẩy sự phát triển, thì việc chê bai Trung Quốc đã trở thành một sự thay thế cho việc phải đối mặt một cách thành thật với nhu cầu cấp thiết là phải biến đổi bản chất của tăng trưởng toàn cầu.

Nếu người Mỹ đơn giản là chấp nhận những hạn chế do cấu trúc hiện tại áp đặt và cố gắng đấu tranh để giải quyết nó trong phạm vi những hạn chế này, thì chúng ta đang tiến vào một chu kỳ xung đột đang tăng tốc từng bước. Đối với Trung Quốc, đó là vì vấn đề trung tâm không phải là thương mại mà là sự phát triển. Khi được nhìn nhận từ khía cạnh này thì điều trở nên rõ ràng là những đòi hỏi mà Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ đang đưa ra không khác gì việc cắt đứt con đường để Trung Quốc tiến tới một xã hội giàu có hơn. Đối với ban lãnh đạo Trung Quốc, điều này đặt ra một mối đe dọa mang tính sống còn.

Đúng là nền kinh tế Trung Quốc đã tăng trưởng với tốc độ cao nhất trong lịch sử của nó trong 3 thập kỷ qua, cải thiện đáng kể mức sống của hàng trăm triệu người dân. Tuy nhiên, phần lớn người dân Trung Quốc vẫn hết sức nghèo khó vì họ xuất phát từ một mức thu nhập thấp và vì của cải được phân phối rất không đồng đều. Một báo cáo gần đây đã đưa ra mức thu nhập trung bình của các hộ gia đình, được điều chỉnh theo sức mua, là 6.180 USD. Con số đó ở Mỹ là 43.585 USD – nhiều hơn 7 lần.

Trong khi nhiều tỉnh ven biển của Trung Quốc đã đạt đến mức phát triển cao, thì rất nhiều tỉnh nội địa vẫn chìm trong nền nông nghiệp quy mô nhỏ năng suất thấp. Ngay cả ở Thượng Hải, thành phố giàu có nhất Trung Quốc, đại đa số lao động vẫn phải làm thuê những công việc lương thấp, thường kéo dài ít nhất 12 tiếng/ngày như lao động đến gãy lưng trên các công trường xây dựng, vắt kiệt mồ hôi tại các công xưởng trong điều kiện nguy hiểm, vận hành các cửa hàng nhỏ với lãi suất vô cùng ít ỏi, làm nghề mại dâm, quét rác trên đường phố hay bới rác.

Sự vật lộn để có được một cuộc sống tốt đẹp trong điều kiện cạnh tranh dữ dội và khan hiếm chung đã khiến cho bất ổn xã hội trở thành tình trạng kinh niên ở Trung Quốc. Chính phủ không còn công bố dữ liệu thống kê về số lượng các cuộc đình công và phản kháng, và các phương tiện truyền thông chính thức hiếm khi đưa tin về chúng, nhưng hầu như không ai nghi ngờ về việc sự bất mãn đó vừa có chiều rộng vừa có chiều sâu. Theo thống kê không chính thức của tổ chức China Labour Bulletin, con số các cuộc bạo loạn của người lao động trong năm 2017 dừng ở mức 1.257 và trong 7 tháng đầu năm 2018, con số này đã lên tới 1.063. Vì những con số này chỉ phản ánh các trường hợp có thể biết được trên mạng, chủ yếu thông qua truyền thông xã hội, nên nhóm thống kê tin rằng con số thực tế có lẽ cao hơn thế 10 đến 20 lần.

Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã kết luận rằng cách duy nhất để kiểm soát tình trạng bất ổn nguy hiểm này là tiếp tục quỹ đạo phát triển hiện tại và duy trì việc dịch chuyển Trung Quốc sang nền sản xuất có giá trị cao hơn. Điều họ lo ngại hơn cả là Trung Quốc có thể rơi vào “bẫy thu nhập trung bình” mà ở đó quỹ đạo phát triển của một nước dừng lại và trì trệ, không đạt đến được trình độ tiên tiến. Các nước như Ai Cập, Thái Lan và Brazil bị rơi vào tình trạng như vậy, không đáp ứng được nguyện vọng của người dân nước họ và gây hỗn loạn chính trị rộng khắp.

Các nhà lãnh đạo Trung Quốc nhận thức sâu sắc về trải nghiệm này cũng như những tiền lệ trước đó của Trung Quốc, kể cả các cuộc phản kháng tại quảng trường Thiên An Môn vào năm 1989 do tình trạng lạm phát cao và sự trục trặc của nền kinh tế gây ra. Cách đây vài năm, Vương Kỳ Sơn – thường được coi là người đàn ông quyền lực thứ hai ở Trung Quốc – đã yêu cầu các cán bộ cấp cao phải đọc tác phẩm “Chế độ cũ và cuộc cách mạng” của nhà sử học người Pháp Alexis de Tocqueville, cảnh báo rõ ràng rằng tình trạng hiện nay của Trung Quốc giống như tình trạng nước Pháp ngay trước khi cuộc cách mạng nổ ra.

Sẽ không có một sức ép nào từ phía Mỹ thuyết phục được các nhà lãnh đạo Trung Quốc từ bỏ chiến lược phát triển của họ khi họ cảm thấy đã rơi vào bước đường cùng. Nhưng tại sao lại như vậy? Việc đưa một đất nước đi lên từ đói nghèo và làm gia tăng cơ hội cho tất cả mọi người sẽ không phải là những mục tiêu gây tranh cãi. Vậy thì tại sao lại có nhiều người ở Mỹ vội vàng tóm lấy cơ hội để chỉ trích Trung Quốc vì điều đó đến vậy? Câu trả lời là theo hình thái toàn cầu hóa hiện nay, cách duy nhất để có được sự phát triển là gian lận – được định nghĩa là sự can thiệp đáng kể của nhà nước vào nền kinh tế thị trường. Chỉ có những nước lớn tạo được bước đột phá trong phát triển mới đúng là những nước thao túng các điều kiện mà nền kinh tế toàn cầu đưa ra.

Kết quả tăng trưởng trong 3 thập kỷ toàn cầu hóa vừa qua đã chứng tỏ điều này. Trong số các nước đông dân nhất có thu nhập thấp và trung bình, chỉ có Trung Quốc là chứng kiến sự tăng trưởng đáng kể và bền vững về tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người. Ngược lại, các nước khác đã cho thấy sự gia tăng vừa phải về mức thu nhập nhưng lại không có sự đột phá trong phát triển. Cấu trúc chung của các nền kinh tế này vẫn trì trệ – hoặc tồn tại trong tình trạng nghèo xác xơ hoặc bị cản trở đến mức còn lâu mới trở thành các nước giàu có.

Kỷ nguyên tăng trưởng toàn cầu hậu Chiến tranh thế giới thứ hai, dễ thích nghi hơn với các cơ chế đầu tư do nhà nước dẫn dắt, đã chứng kiến các nước như Brazil và Mexico phát triển nhanh chóng. Nhưng trong thời kỳ toàn cầu hóa thị trường tự do, cơ hội phát triển duy nhất của các nước nghèo là thu hút đầu tư nước ngoài vào các ngành sản xuất để xuất khẩu hàng hóa sang các nước giàu. Sự lựa chọn thay thế khác có ý nghĩa, xuất khẩu các hàng hóa cơ bản từ dầu mỏ đến đồng rồi đậu nành, đã làm giàu cho một số người ở những nước nghèo nhưng nhìn chung lại không biến thành sự tăng trưởng trên diện rộng bởi các chu kỳ thịnh-suy diễn ra nhanh chóng và các thành tựu của những thị trường này trong lĩnh vực việc làm là có hạn.

Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan vào những năm 1960 và 1970 đã đi tiên phong trong việc xuất khẩu hàng hóa sản xuất như một chiến lược phát triển. Là đồng minh của Mỹ trong cuộc Chiến tranh Lạnh trước khi ý thức hệ thị trường tự do được áp đặt trở lại, những chính phủ này hoàn toàn được tự do hướng các nguồn lực vào các ngành công nghiệp chiến lược. Điều có ý nghĩa không kém là sự cạnh tranh mà họ phải đối mặt trong lĩnh vực xuất khẩu hàng hóa giá rẻ là rất hạn chế.

Khi ngày càng có nhiều quốc gia hội nhập chế độ toàn cầu hóa thị trường tự do bắt đầu vào đầu những năm 1980, sự tranh giành đầu tư và các thị trường xuất khẩu trở nên khốc liệt hơn bao giờ hết. Càng có nhiều quốc gia sử dụng chiến lược này, càng khó cho bất kỳ quốc gia đơn lẻ nào trong việc tích lũy tư bản họ cần để đổi mới căn bản nền kinh tế và duy trì sự gia tăng về của cải. Và không giống như sự phối hợp có chủ ý trong việc lập kế hoạch phát triển cho kỷ nguyên hậu chiến tranh, thị trường tự do có xu hướng chuyển các nguồn lực sang các nước vốn đã giàu có vì những nước này hứa hẹn mang lại lợi nhuận cao nhất. Kết quả là, 3/5 đầu tư nước ngoài trong kỷ nguyên toàn cầu hóa rơi vào tay 1/8 dân số thế giới tập trung ở những nước giàu.

Vì thị trường người tiêu dùng toàn cầu vẫn luôn có giới hạn, nên các nước nghèo bị buộc phải cạnh tranh gay gắt với nhau. Việc theo đuổi sự phát triển thông qua các công xưởng bóc lột công nhân thậm tệ có nghĩa là chỉ có những nước duy trì được nguồn lao động rẻ mới thu hút thành công đầu tư nước ngoài. Nếu giá lao động bắt đầu tăng – nghĩa là nếu tăng trưởng kinh tế bắt đầu mang lại một cuộc sống tốt đẹp hơn cho người lao động – thì nguồn đầu tư nước ngoài sẽ dịch chuyển đi nơi khác.

Kết quả là, nhiều nước đã chứng kiến việc dòng đầu tư đổ vào không để lại bất kỳ di sản lâu dài nào vì nguồn vốn nhanh chóng ra đi khi người lao động bắt đầu đưa ra các yêu cầu hay khi có sẵn các lựa chọn rẻ hơn. Chẳng hạn, Mexico đã chứng kiến một vài làn sóng đầu tư nước ngoài quy mô lớn. Tuy nhiên, mức lượng là không đổi trong hơn một thập kỷ, tỷ lệ đói nghèo chiếm hơn một nửa dân số, và số lượng công ăn việc làm trong ngành sản xuất hiện giờ vẫn giữ ở mức như trong năm 1960.

Trung Quốc đã thoát khỏi cái bẫy này chính xác là vì họ có các phương tiện cần thiết để gian lận trong khi chơi trò chơi dối trá này. Khi Trung Quốc bước vào cuộc cạnh tranh để phát triển trong những năm 1980, họ lấy làm hãnh diễn vì có một lực lượng lao động có kỷ luật và học thức đến mức khác thường, cơ sở hạ tầng đặc biệt tiên tiến và một nền tảng công nghiệp rất đa dạng so với các nước khác có cùng trình độ phát triển. Từ năm 1989 đến năm 2016, Trung Quốc đã thu hút 1/5 toàn bộ nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào các nước đang phát triển.

Nhưng chỉ mình đầu tư thì không tạo ra được sự phát triển. Khu vực Mỹ Latinh, trong cùng giai đoạn, đã thu hút được một phần thậm chí còn lớn hơn trong số FDI cho các nước đang phát triển – 1/4 – mà không đạt được sự tăng trưởng bùng nổ như đã thấy ở Trung Quốc.

Giống như ban lãnh đạo của hầu hết các nước nghèo, Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) xác nhận sự phát triển là mục tiêu trung tâm cho tính chính danh của mình. Nhưng ở các nước khác, quyền lực chủ yếu được thiết lập thông qua các mạng lưới nhà bảo trợ-khách hàng chắp vá, chỉ liên kết theo kiểu ký sinh với hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Ngược lại, nhà nước Trung Quốc là nhà nước trung ương tập quyền tới mức khác thường và sở hữu quyền kiểm soát cũng ở mức độ khác thường đối với nền kinh tế.

Trung Quốc chắc chắn không phải là không có sự bảo trợ và tham nhũng, nhưng trong hệ thống đảng-nhà nước từ trên xuống dưới, các quan chức thăng tiến bằng cách có được những con số thống kê đẹp về nền kinh tế vĩ mô và đóng góp vào chính sách công nghiệp do trung ương quyết định. Do có mối quan hệ gần gũi giữa quan chức và doanh nghiệp nên có thể theo đuổi sự bảo trợ thông qua việc đầu tư có hiệu quả thay vì chỉ thông qua việc bòn rút các nguồn lực.

ĐCSTQ đã nuôi dưỡng các lực lượng thị trường để đưa lực lượng lao động vào kỷ luật và các công ty tư nhân vẫn duy trì khả năng của họ trong việc giám sát các mô hình đầu tư lớn. Bằng việc dồn vốn để tăng cường các ngành công nghiệp chiến lược và kiến thức chuyên môn, ban lãnh đạo đã từng bước dịch chuyển lần lượt các lĩnh vực của nền kinh tế hướng đến một nền sản xuất ngày càng tiên tiến. Trong các lĩnh vực từ đồ chơi và dệt, đến thép và hóa chất, rồi đến xe hơi và hàng không và bây giờ là công nghệ thông tin và robot tiên tiến, nhà nước đã từng bước thúc đẩy nền sản xuất đi lên.

Nếu tầm nhìn đặc biệt này và năng lực của nhà nước mang lại động lực thúc đẩy Trung Quốc phát triển, thì chính vị thế thương lượng vững chắc có một không hai của Trung Quốc đã cho phép nước này thực hiện thành công các kế hoạch của mình. Thị trường rộng lớn và ngày càng phát triển của Trung Quốc đã thuyết phục được các tập đoàn lớn của nước ngoài đầu tư theo các điều khoản đã được đàm phán với nước này thay vì đơn phương áp đặt các điều kiện của riêng họ, như họ từng làm với ngành sản xuất ở Mỹ Latinh hay ngành công nghiệp khai khoáng ở châu Phi. Đáng chú ý nhất là Trung Quốc đã yêu cầu các tập đoàn nước ngoài bước vào thị trường trong nước phải tham gia liên doanh với các công ty Trung Quốc, điều cho phép các công ty trong nước học được các thông lệ về quản lý và công nghệ của thế giới các nước phát triển. Trung Quốc cũng đã đặt ra các quy định nhằm đảm bảo các điều kiện có lợi để các doanh nghiệp Trung Quốc được cấp phép sử dụng công nghệ của các công ty nước ngoài.

Chính phủ Trung Quốc và cá nhân một số công ty của Trung Quốc cũng đã giành được quyền tiếp cận công nghệ tiên tiến thông qua tình báo công nghiệp. Trong việc này, họ đã đi theo một con đường mà mọi quốc gia khác từng thành công về kinh tế đã đi qua – nhất là Mỹ. Vào cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19, nước Mỹ non trẻ và lạc hậu về công nghệ đã hăng hái tham gia đánh cắp và chuyển giao bất hợp pháp các kỹ thuật sản xuất mũi nhọn từ nước Anh.

Tuy nhiên, việc công khai đánh cắp chỉ đóng một vai trò nhỏ trong chiến lược của Trung Quốc. Ngay cả Đại diện thương mại Mỹ Robert Lighthizer, một người hiếu chiến ủng hộ đường lối cứng rắn đối với Trung Quốc, cũng không dám nói rằng tình báo công nghiệp là một thành tố chính cấu thành nên chính sách của Trung Quốc nhằm thâu tóm thành công công nghệ tiên tiến. Báo cáo của Văn phòng Đại diện thương mại Mỹ sau cuộc điều tra của họ về “chế độ chuyển giao công nghệ bất hợp pháp” của Trung Quốc theo Mục 301 của Luật thương mại Mỹ năm 1974 tập trung rất nhiều vào các cuộc chuyển giao được thực hiện thông qua hoạt động liên doanh, các quy định về cấp phép và việc các công ty Trung Quốc thu mua các công ty nước ngoài – tất cả những điều này hẳn sẽ không xảy ra nếu các công ty nước ngoài có liên quan đều không sẵn sàng thỏa thuận. Mỗi một hình thức chuyển giao công nghệ đơn giản là một trường hợp khác của nguyên tắc chung về thị trường rằng các bên tham gia có sức mạnh thương lượng lớn hơn sẽ luôn đạt được những thỏa thuận tốt hơn cho mình. Phân tích cho cùng, Trung Quốc đã giành được quyền tiếp cận công nghệ không phải bằng cách gian lận mà vì họ không yếu đến mức thảm hại như những nước khác cũng đang hy vọng phá vỡ thế độc quyền của các nước giàu vốn dựa vào kỹ thuật để đạt năng suất cao.

Tuy nhiên, Trung Quốc đã phải trả giá rất đắt cho chiến lược phát triển. Nhu cầu của Trung Quốc về đầu tư nước ngoài xuất hiện đồng thời với chiến dịch dài hạn của các tập đoàn ở Mỹ, châu Âu và Nhật Bản nhằm cắt giảm tiền lương và phá vỡ sức mạnh của các liên đoàn. Sự sẵn có của lao động Trung Quốc giá rẻ cho phép các tập đoàn này ép buộc người lao động phải chấp nhận mức lương trì trệ và điều kiện làm việc ngày càng tồi tệ trước sự đe dọa dịch chuyển sản xuất ra nước ngoài, góp phần đáng kể vào sự sụp đổ của khế ước xã hội ở những nước phát triển.

Chiến lược của Trung Quốc cũng tước đi khả năng phát triển của các nước nghèo khác. Một lần nữa ở đây, sức mạnh của nhà nước Trung Quốc đảm bảo nước này có một lợi thế quan trọng so với các đối thủ cạnh tranh, không chỉ trong việc cung cấp cho tư bản nước ngoài một lực lượng lao động giá rẻ và có kỷ luật và cơ sở hạ tầng có chất lượng cao một cách khác thường, mà còn bằng việc duy trì tỷ giá hối đoái thấp cho đồng nhân dân tệ. Điều này bảo đảm lợi thế về giá cả cho hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc khiến các nước khác bị gạt sang một bên.

Đặc biệt là người dân Trung Quốc cũng phải chịu đựng rất nhiều. Vì sự tăng trưởng dựa vào xuất khẩu đòi hỏi phải khai thác mạnh mẽ lực lượng lao động, nên Trung Quốc đã phá hủy có hệ thống sức dao động. Kết quả là, lao động Trung Quốc đã phải chịu đựng điều kiện làm việc nguy hiểm, mức lương nghèo nàn, tình trạng thường xuyên bị đánh cắp tiền lương và bị sỉ nhục ở nơi làm việc trong nhiều thập kỷ. Điều gây kinh hoàng là 38.000 lao động Trung Quốc đã mất mạng trong các tai nạn xảy ra tại nơi làm việc vào năm 2017.

Mặc dù sự phát triển đã mở ra các cơ hội kinh tế cho phần lớn người Trung Quốc, nhưng hệ thống trung ương tập quyền từ trên xuống dưới vốn cần thiết để đạt được sự phát triển theo tiến trình toàn cầu hóa thị trường tự do đã hạn chế đáng kể những lĩnh vực tự do khác ở Trung Quốc. Xuất hiện cùng với sự gia tăng về của cải là tình trạng tham nhũng mang tính đặc hữu, sự sa sút của các dịch vụ công và việc của cải rõ ràng chỉ được phân phối cho các tầng lớp trên. Vì dân thường ngày càng dễ bị ảnh hưởng bởi các lực lượng thị trường, nên họ đã phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng dữ dội, tình trạng bất ổn gia tăng và sự đổ vỡ lòng tin và cộng đồng đi kèm tình trạng như vậy. Sự phát triển làm xói mòn thay vì thúc đẩy các triển vọng dân chủ hóa của nước này.

Những vấn đề này không phải chỉ có ở Trung Quốc. Tiến trình toàn cầu hóa thị trường tự do đã khiến cho người lao động ở tất cả các nước phải cạnh tranh với nhau trong tình trạng đối kháng theo kiểu “cuộc đua đến đáy” (các công ty cạnh tranh với nhau bằng cách cắt giảm tiền lương và điều kiện làm việc – ND). Không nên đổ lỗi cho bên thắng cũng như bên thua trong cuộc chiến này về các hậu quả. Vấn đề là bản thân cấu trúc của nền kinh tế toàn cầu.

Sự dư thừa năng lực là vấn đề thực sự, cũng như sự cạnh tranh khắc nghiệt mà việc phát triển có kế hoạch của nền sản xuất công nghệ cao của Trung Quốc có thể gây ra cho các khu vực năng động nhất của nền kinh tế Mỹ. Nhưng thay vì cản trở sự phát triển ở Trung Quốc, một hình thức toàn cầu hóa mới có thể giải quyết các vấn đề này bằng cách nâng cao mức lương và năng suất trên toàn thế giới. Cách tiếp cận mang màu sắc dân tộc chủ nghĩa tìm cách hạn chế sự cạnh tranh bằng cách giới hạn nguồn cung, trong khi cách tiếp cận thay thế sẽ giải quyết tình trạng dư thừa năng lực và hạn chế về thị trường bằng cách mở rộng nhu cầu.

Nhưng một giải pháp như vậy đòi hỏi phải có một sự suy tính lại về sự tăng trưởng toàn cầu ở mức độ sâu sắc hơn nhiều so với những gì mà các chính trị gia dù là cánh tả hay cánh hữu đã dự tính. Nó đòi hỏi phải chấm dứt “cuộc đua đến đáy”: một chế độ toàn cầu về các quyền của người lao động mà sẽ phân phối lợi ích thu được từ sự tăng trưởng một cách rộng rãi hơn và đồng thời buộc các tập đoàn phải cạnh tranh bằng cách đầu tư vào lao động của họ thay vì làm cho các điều kiện làm việc trở nên tồi tệ hơn. Nó cũng đòi hỏi phải dành các khoản đầu tư đáng kể cho hàng tỷ người hiện đang cần vốn – các khoản đầu tư mà thị trường tự do từ chối bỏ ra – nhằm biến những người bị mắc kẹt trong các khu ổ chuột, khu biệt cư và các khu vực nông thôn bị bần cùng hóa trở thành người lao động và người tiêu dùng trong tương lai.

Việc đổ lỗi cho Trung Quốc đe dọa kìm hãm tiến trình toàn cầu hóa thị trường tự do mà không thiết lập được bất cứ thứ gì thay thế cho nó – một cách tiếp cận mà chỉ có thể dẫn đến một vòng luẩn quẩn với hoạt động kinh tế bất thường ngày một gia tăng và xung đột mang màu sắc dân tộc chủ nghĩa là nguyên nhân và kết quả của nhau và đẩy thế giới đi theo một chiều hướng rất nguy hiểm. Một con đường khác sẽ đòi hỏi đối đầu với các nhóm lợi ích đầy quyền lực, ở Mỹ cũng như ở Trung Quốc. Trái ngược với tư duy dân tộc chủ nghĩa lợi ích ngang nhau, lựa chọn thay thế là một tầm nhìn thực sự mang tính toàn cầu về sự phát triển.

Jake Werner là nhà sử học về Trung Quốc hiện đại. Ông là Phó giáo sư về Khoa học Xã hội Đại học Chicago, Mỹ. Bài viết được đăng trên Foreign Policy.

Trần Quang (gt)
0

Các điểm yếu chiến lược của Trung Quốc

Trung Quốc trong thế kỷ 21 có thể sở hữu cỗ máy quân sự mạnh mẽ với kho vũ khí tên lửa có khả năng bắn tới lục địa Mỹ, tuy nhiên, Vạn lý trường thành trên bộ và Vạn lý trường thành trên biển, là những đảo đá được gia cố và cải tạo ở Biển Đông, vẫn có thể khiến Trung Quốc dễ bị tổn thương.


Trung Quốc có thể có một Tập Cận Bình chỉ huy bộ máy quân sự đáng gờm này và kể từ năm 2013 đã tiến hành chủ nghĩa phiêu lưu quân sự, song con đường theo đuổi “Giấc mộng Trung Hoa” của Tập đang ngày càng làm tính dễ bị tấn công chiến lược của Bắc Kinh gia tăng. Vì vậy, cơ quan chính sách của Ấn Độ và các cơ quan tình báo liên quan cần tập trung nghiên cứu tính chất dễ bị tấn công mang tính chiến lược này của Trung Quốc và thường xuyên có những đánh giá về cách thức lợi dụng tính chất này để đối phó với sức mạnh quân sự vượt trội của Bắc Kinh. Phải thừa nhận rằng trong vòng 10 năm trở lại đây, Trung Quốc có tiềm lực quân sự có khả năng đe dọa về mặt quân sự và chính trị trong phạm vi các nước láng giềng. Mặc dù vậy, Bắc Kinh vẫn thiếu cả khả năng viễn chinh và khả năng tập hợp lực lượng để triển khai các chiến dịch ở tận Vùng Vịnh hoặc ở quy mô mà Mỹ và Nga có thể làm được.

Vì vậy, những nước đối địch của Trung Quốc cần nghiên cứu tính chất dễ bị tấn công về mặt chiến lược và địa chính trị của Trung Quốc khi đánh giá sức mạnh quân sự của Trung Quốc, nhất là trong bối cảnh môi trường an ninh khu vực hiện nay. Việc đánh giá này không đơn thuần dựa trên những năng lực quân sự cũng như những hành động gây hấn của Bắc Kinh, mà dựa vào tính khách quan và các thuật ngữ quân sự đơn giản.

Đối với khía cạnh dễ bị tổn thương hay dễ bị tấn công về mặt địa chính trị, Trung Quốc nằm giữa hai cường quốc Mỹ và Nga. Ngoài ra, khu tự trị Tây Tạng, một điểm yếu khác của Trung Quốc, lại sát với Ấn Độ. Bắc Kinh và Washington trong năm 2018 này vẫn trong tình trạng đối đầu và mối quan hệ giữa Bắc Kinh và New Delhi cũng trong tình trạng tương tự. Moskva có thể duy trì quan hệ chiến lược với Bắc Kinh song đây chỉ là một kiểu quan hệ mang tính chiến thuật. Trong khi đó, sườn phía Thái Bình Dương của Trung Quốc là các quốc gia có mối quan hệ liên minh quân sự với Mỹ ở các cấp độ khác nhau. Trong đó, Nhật Bản là một cường quốc có quan hệ liên minh quân sự mạnh mẽ với Washington và vai trò của Tokyo cũng nổi lên trong cấu trúc an ninh khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Sự phân cực cạnh tranh hàng hải với Trung Quốc cũng nổi lên mạnh mẽ sau những hành động quyết đoán của Bắc Kinh ở Biển Đông.

Xét ở khu vực địa chính trị châu Á hẹp hơn, Trung Quốc không có bạn bè. Tại Đông Á, ngoài Triều Tiên thì các nước khác không ưa gì Bắc Kinh. Ở khu vực Đông Nam Á, mặc dù Trung Quốc có thể thành công trong việc chia rẽ ASEAN song nhìn chung, ngoài Campuchia và và ở mức độ nào đó là Thái Lan, thì Trung Quốc không thể dựa vào bất kỳ nước nào sau những hung hăng quân sự của họ ở Biển Đông. Khu vực Nam Á lại đặt ra thách thức địa chính trị nghiêm trọng cho Bắc Kinh bất chấp sự nổi lên của trục Trung Quốc-Pakistan. Còn ở Trung Đông, Bắc Kinh không phải là nhân tố làm thay đổi cuộc chơi trong khu vực đang chứng kiến sự cạnh tranh giữa các cường quốc như Mỹ và Nga. Tóm lại, ở châu Á, mặc dù Trung Quốc gia tăng mở rộng quân sự nhưng cán cân quyền lực về mặt địa chính trị vẫn là những thách thức mà Bắc Kinh phải đối mặt trước mạng lưới liên minh quân sự và đối tác chiến lược của Mỹ với các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ và Úc.

Xét ở góc độ chiến lược, Trung Quốc vẫn còn kém xa các liên minh quân sự và địa chính trị đối đầu với Bắc Kinh. Do không có sức mạnh nào bù đắp cho sự yếu kém này, Bắc Kinh khó có thể đem lại cái gọi là “cấp số nhân lực lượng” cho mình. Bên cạnh đó, không thể nói rằng môi trường chính trị và an ninh nội bộ lại giúp tăng cường sức mạnh tổng thể cho Bắc Kinh khi các khu vực biên giới như Tây Tạng và Tân Cương vẫn chìm trong bất ổn. Cùng với sự suy giảm tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu hàng chế tạo kèm theo đó là thu nhập giảm và tình trạng thất nghiệp, sự bất bình trong nước sẽ gia tăng. Thêm vào mối đe dọa này là sự che dấu tình trạng bất ổn (chính trị) có thể gây nên bởi giới chức cấp cao trong Đảng Cộng sản, trong quân đội và những quan chức bị xử với cáo buộc tham nhũng do họ chống lại quyền lực của Tập. Trung Quốc hoàn toàn không thể bị tổn thương như giới phân tích chiến lược lâu nay tuyên bố. Thực tế, Bắc Kinh cũng có những yếu tố dễ bị tổn thương mang tính chiến lược rõ ràng vốn có thể hủy hoại sức mạnh tổng thể của mình nếu đi sâu phân tích kỹ lưỡng.

Theo “Eurasia review”
Hương Trà (gt)

Nguồn bài đăng: http://nghiencuubiendong.vn/nghien-cuu-trung-quoc/6903-cac-diem-yeu-chien-luoc-cua-trung-quoc
0

Lịch sử quan hệ Việt-Trung nhìn từ góc độ đại chiến lược

Vũ Hồng Lâm*

Tổng quan

Quan hệ Việt Nam-Trung Quốc là một trong những mối quan hệ địa chính trị lâu đời nhất trên thế giới còn tồn tại đến ngày nay. Nói “quan hệ địa chính trị” để nói về một phạm trù tổng quát hơn, bao trùm hơn phạm trù “quan hệ giữa hai quốc gia”. Bởi vì trong gần hai mươi hai thế kỷ lịch sử của nó, quan hệ Việt-Trung không phải lúc nào cũng là quan hệ giữa hai quốc gia, càng không phải lúc nào cũng là quan hệ giữa hai “nhà nước dân tộc có chủ quyền”, như ta vẫn quen hình dung về mối quan hệ giữa hai “nước” trong thế giới hiện đại. “Quan hệ Việt-Trung” ở đây được hiểu là mối quan hệ giữa hai thực thể địa chính trị. Mối quan hệ địa chính trị này trong từng thời kỳ có tính chất gì, mang đặc điểm gì, hay có thể gọi là gì, đó chính là câu hỏi bao trùm của bài nghiên cứu này.

Quan hệ Việt-Trung trong gần 2200 năm tồn tại từ thế kỷ 2 trước Tây lịch đến nay có thể chia ra bốn thời kỳ cơ bản. Thời kỳ thứ nhất quen gọi là “thời kỳ Bắc thuộc”, dài khoảng một ngàn năm, từ lúc nước Âu Lạc của An Dương Vương thuộc về nước Nam Việt của Triệu Đà (năm 179 tr. TL), khi mối liên hệ địa chính trị đầu tiên giữa miền châu thổ sông Hồng với miền Trung nguyên Trung Quốc được thiết lập thông qua quan hệ Hán-Nam Việt, cho đến thời điểm Ngô Quyền thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng (năm 938 sau TL). Thời kỳ thứ hai gọi chung là “thời kỳ Đại Việt”, dài tương đương, từ khi Ngô Quyền xưng vương (939) đến khi Pháp đặt nền bảo hộ ở Việt Nam và nhà Thanh công nhận chủ quyền của Pháp ở đây (1883). Thời kỳ thứ ba quen gọi là “thời kỳ Pháp thuộc”, kéo dài khoảng 6 thập niên, từ 1883 đến 1945, khi Việt Nam tuyên bố độc lập. Thời kỳ thứ tư gọi chung là “thời kỳ Việt Nam”, dài tương tự, từ 1945 đến nay. Thời kỳ này gồm 3 giai đoạn: (1) từ cuối thập niên 40 đến cuối thập niên 60, (2) từ đầu thập niên 70 đến cuối thập niên 80, (3) từ đầu thập niên 90 đến nay.

Thời kỳ Bắc thuộc

Thời Bắc thuộc, Việt Nam được tổ chức thành quận huyện trong cơ cấu nhà nước đế quốc Trung Hoa với tên gọi “Giao châu” (nửa đầu thời kỳ) và “An Nam đô hộ phủ” (nửa sau thời kỳ). Quan cai trị Việt Nam do vua Trung Quốc bổ nhiệm. Như vậy, Việt Nam thống thuộc vào Trung Quốc về nhân sự lãnh đạo cũng như về chính sách. Song thực tế không nhất thiết là như vậy. Có hai cách đi ra ngoài khuôn khổ của triều đình Trung Hoa.

Cách thứ nhất được thực hiện bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang, sau đó người lãnh đạo khởi nghĩa xưng “vương” hoặc xưng “đế”. Hiện tượng các thủ lĩnh địa phương nổi lên xưng đế là hiện tượng bình thường trong lịch sử Trung Quốc. Thế nhưng trong đa số trường hợp họ đều hướng tới chiếm lĩnh Trung nguyên, thâu tóm cả Trung Quốc về mình: Dưới vòm trời chỉ có một mặt trời mà thôi. Song ở Việt Nam, những người nổi lên xưng vương xưng đế chưa bao giờ nuôi ý đồ tiến chiếm Trung nguyên. Họ luôn coi Trung Quốc như một thiên hạ khác. Họ không định gồm thâu Trung Quốc, mà ngược lại, họ muốn rạch ngang vòm trời, chia thiên hạ làm hai, nửa bắc của người bắc, nửa nam của mình. Ở đây, người ta vẫn sử dụng mô hình thế giới của Trung Hoa, nhưng bóp méo nó đi ở một điểm cơ bản: Thiên hạ chia hai, có hai mặt trời. Tư tưởng này là viễn tượng về trật tự thế giới của hàng loạt các thế lực lãnh đạo Việt Nam cho đến mãi về sau. Nó thể hiện trong đế hiệu “Lý Nam đế” của Lý Bí (544), trong bài thơ “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” được cho là của Lý Thường Kiệt (1075), trong bài phú “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi (1428). Nhưng không phải nó chỉ bắt đầu với Lý Bí. Nó đã bắt đầu rất sớm, trước cả khi có mối quan hệ Việt-Trung nếu ta quan niệm quan hệ Việt-Trung khởi sự cùng với mối liên hệ địa chính trị đầu tiên giữa miền châu thổ sông Hồng và miền Trung nguyên Trung Quốc. Do đó, mối quan hệ địa chính trị giữa Việt Nam và Trung Hoa ngay từ khi khởi sự đã được lồng trong cái tư tưởng “Bắc Nam chia đôi” ấy. Kẻ khởi xướng ra cái tư tưởng “Bắc Nam tương xứng” đó là Triệu Đà, nguyên là một viên tướng nhà Tần cử xuống cai trị ở vùng Lĩnh Nam. Nhân lúc trung ương Hoa Hạ suy yếu, họ Triệu nổi lên xưng đế, lập nước Nam Việt, xây dựng chính quyền theo hình mẫu Trung Hoa, nhưng cải lối sống theo tục Việt. Tuy nhiên Triệu Đà sớm phải thỏa hiệp với Trung Hoa: Ông phải bỏ xưng “đế”, chịu cho nhà Hán phong “vương”, nghĩa là công nhận tư cách của mình chỉ như một chư hầu mà vua Hán là bá chủ. Trong suốt thời Bắc thuộc, các cuộc khởi nghĩa của người Việt cũng đều ngắn ngủi. Phần thắng vẫn thuộc về kẻ muốn áp đặt trật tự thế giới một trung tâm, mà Việt Nam trong đó chỉ có tư cách quận huyện.

Cách thứ hai là chấp nhận tư cách quận huyện của Việt Nam trong cơ cấu tổ chức nhà nước Trung Quốc, nhưng giữ cho mình một không gian tự chủ riêng. Kẻ cai trị Giao châu hay An Nam tự lập vào chức đứng đầu bộ máy cai trị địa phương hoặc cha truyền con nối, sự sắc phong của triều đình trung ương bên Trung Hoa chỉ là hình thức. Tự chủ trong nhân sự lãnh đạo đi kèm với tự chủ trong chính sách. Những thời kỳ như vậy nổi bật nhất có họ Sĩ (tk 2 sau TL) và họ Khúc (tk 9).

Thời kỳ Đại Việt

Đây là lúc Việt Nam không còn chấp nhận tư cách quận huyện trong đế quốc Trung Hoa nữa, và Trung Hoa cũng phải chấp nhận cho Việt Nam nằm ngoài cương vực của mình. Lịch sử quan hệ Việt-Trung trong thời kỳ này là lịch sử sự xung đột và thỏa hiệp, lịch sử sự thể chế hóa các xung đột và thỏa hiệp ấy giữa hai viễn tượng về trật tự thế giới.

Trung Hoa áp đặt trật tự thế giới của mình thông qua “lễ”. Để khẳng định vị trí của mình trong trật tự thế giới của Trung Hoa, Việt Nam phải nộp cống, kẻ cầm quyền mới lên ngôi phải cầu phong, nhận sắc chỉ của hoàng đế Trung Hoa phải khấu đầu, nếu không làm tròn phận sự sẽ bị cất quân hỏi tội.

Việt Nam thực hiện một chính sách hai mặt. Một mặt vẫn thực hiện đủ lễ với Trung Hoa, nghĩa là về hình thức công nhận trật tự thế giới của Trung Quốc. Mặt khác cứ thực hiện trật tự thế giới của riêng mình. Tự xưng hoàng đế, coi mình như Trung Quốc ở phương Nam, bắt các nước ngoài Trung Hoa phải triều cống, sắc phong cho họ, nếu “bất trung” cũng cất quân hỏi tội. Tuy nhiên, như Alexander Woodside (1971) nhận xét, cái trật tự “Trung Quốc của phương Nam” này lỏng lẻo hơn “Trung Quốc thật sự” rất nhiều.

Phương thức đại chiến lược của Việt Nam đối với Trung Quốc có sự giống và khác giữa hai giai đoạn. Giai đoạn đầu, thời Lý-Trần, là kháng cự và không chối từ (“non-refus”, chữ dùng của Pierre Féray, được Trần Quốc Vượng (1991) tâm đắc). Giai đoạn sau, thời Lê-Nguyễn, là kháng cự và bắt chước. Sự khác nhau này là nguồn gốc gây tranh cãi về thái độ của Việt Nam đối với Trung Quốc trong thời Trung đại. Vĩnh Sính (1994) gọi thái độ ấy nói chung là “kháng cự và chấp nhận”, so sánh với thái độ của sĩ phu Nhật Bản với Trung Quốc là “kính trọng và chối từ”. Sự dịch chuyển thái độ của Việt Nam với Trung Quốc vào nửa sau thời Trung đại, theo Trần Quốc Vượng (1993), là do sự thắng thế của đạo Nho, khiến cho trong thời Lê-Nguyễn tình trạng tam giáo đồng nguyên bị thay bằng tình trạng độc tôn Nho giáo. Mục tiêu đại chiến lược của giới nho sĩ, tức là nghiệp cấp lãnh đạo Việt Nam trong thời Trung đại, như Trần Quốc Vượng (1988) chỉ ra, là “vô tốn, bất dị” (không kém và không khác) Trung Quốc.

Thời kỳ Pháp thuộc

Thời Pháp thuộc, Việt Nam bị chia làm ba kỳ, nằm trong Liên bang Đông Dương thuộc Pháp: Bắc kỳ và Trung kỳ là xứ bảo hộ, Nam kỳ là thuộc địa. Với Hiệp ước Pháp-Thanh năm 1885, Trung Quốc từ bỏ bá quyền của mình và thừa nhận sự bảo hộ của Pháp đối với Việt Nam. Quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc do Pháp đảm nhiệm và trở thành một bộ phận của quan hệ Pháp-Trung.

Thời kỳ này cũng là thời kỳ mà Trung Hoa phải từ bỏ mô hình thế giới truyền thống của mình và áp dụng mô hình thế giới kiểu Âu, một kiểu trật tự thế giới được công nhận ở châu Âu từ sau Hòa ước Westphalia (1648). Sự khác biệt lớn nhất giữa hai mô hình Trung Hoa và Tây phương là trật tự thế giới kiểu Tàu đòi hỏi phải có một trung tâm thiên hạ, đại diện là hoàng đế Trung Quốc với tư cách “con trời”, dưới ông là một hệ thống các “phiên bang”, “chư hầu”, “thuộc quốc”, tức là một sự phân biệt trên dưới rất rõ ràng; trong khi trật tự thế giới kiểu Westphalia không công nhận một trung tâm quyền lực tối thượng đứng trên các nước khác, cai quản cả thế giới dù chỉ trên danh nghĩa, các nước có chủ quyền tối cao trong vùng lãnh thổ của mình, và do đó là ngang nhau trên trường quốc tế.

Tuy nhiên, hành xử của các nước Tây phương phải chia làm hai lớp. Ở phần nghi lễ ngoại giao là mô hình Westphalia, còn trong thực tế là chính trị dựa trên sức mạnh (power politics). Chẳng hạn ở Việt Nam, Pháp chiếm Nam kỳ lục tỉnh làm thuộc địa, có giao kèo đàng hoàng. Nghĩa là quyền chiếm đất của Pháp không phải tự nhiên mà có. Pháp đặt vòng bảo hộ lên Bắc và Trung kỳ, giữ nguyên ngai vàng Hoàng đế Đại Nam, chỉ đặt “công sứ” cai trị. Nghĩa là vẫn công nhận vua An Nam là chủ nước An Nam. Tuy rằng tất cả phải chịu sự điều động của Toàn quyền Đông Dương và chính phủ Pháp. Riêng đối với Trung Hoa, do nước này quá lớn, phương Tây bắt Trung Hoa phải tô nhượng cho họ một số khu vực đầu mối giao thương, phải thừa nhận cho họ có khu vực ảnh hưởng trên lãnh thổ mình. Chẳng hạn Pháp bắt nhà Thanh phải thừa nhận các tỉnh Lưỡng Quảng và Vân Nam nằm trong khu vực ảnh hưởng của Pháp.

Về phía Trung Quốc, một mặt chuyển theo mô hình thế giới kiểu Âu nhất là trong việc đòi hỏi quyền bình đẳng với các nước lớn Tây phương, mặt khác vẫn nuôi tham vọng dành lại bá quyền với các nước khi xưa đã chấp nhận trật tự thế giới kiểu Trung Quốc. Chính sách này chung cho mọi chính quyền ở Trung Quốc, từ nhà Thanh, Quốc dân đảng đến Cộng sản đảng.

Lý và thực trong thời hiện đại

Sau Thế Chiến II, cả thế giới cùng công nhận mô hình Westphalia. Mô hình đó là cơ sở ý thức hệ của Liên Hợp Quốc (cấm xâm lược, mỗi nước một phiếu), cũng là chỗ bám để các nước thuộc địa đòi hỏi quyền tự quyết của mình. Chính trên căn bản này mà Ấn Độ và Trung Quốc đã đề ra “năm nguyên tắc chung sống hòa bình” (tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm lược lẫn nhau, không can thiệp vào nội trị của nhau, bình đẳng cùng có lợi, chung sống hòa bình). Những nguyên tắc này cũng được Trung Quốc và Việt Nam coi như một căn bản trong quan hệ giữa hai quốc gia. Nói cách khác, mô hình thế giới truyền thống kiểu Trung Quốc mà các triều đình Việt Nam và Trung Hoa chia sẻ trước kia đã không còn hiệu lực pháp lý. Bên cạnh đó, nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa và nước Trung Hoa xã hội chủ nghĩa còn có chung một mô hình thế giới nữa. Theo đó, thế giới chia làm hai phe, xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, trong đó Việt Nam và Trung Quốc cùng thuộc phe xã hội chủ nghĩa, tức là như “anh em một nhà”.

Trong những năm 50 và 60, Việt Nam coi Liên Xô và Trung Quốc là hai nước đứng đầu phe xã hội chủ nghĩa, là “anh cả” và “anh hai”. Điều này có vẻ như Việt Nam trùng quan điểm với Trung Quốc (Liên Xô và Trung Quốc là anh cả và anh hai của phe xã hội chủ nghĩa), khác quan điểm với Liên Xô (Liên Xô một mình lãnh đạo phe xã hội chủ nghĩa). Nhưng thực chất có sự khác biệt quan trọng giữa ba quan điểm của ba nước. Trung Quốc vẫn công nhận phe xã hội chủ nghĩa lãnh đạo bởi Liên Xô, nhưng điểm mấu chốt mà Trung Quốc đòi hỏi là họ phải được độc lập, không bị phụ thuộc vào “anh cả”. Vì thế mà Mao muốn Liên Xô chia sẻ kỹ thuật làm bom nguyên tử với Trung Quốc. Nhưng Liên Xô muốn các nước xã hội chủ nghĩa phụ thuộc vào mình nên từ chối cho Trung Quốc công nghệ nguyên tử. Đây là nguyên nhân sâu xa và căn bản của sự “bất hòa” giữa hai nước trong những năm về sau. Về phía Việt Nam, để phục vụ mục tiêu hoàn toàn giải phóng miền Nam, Việt Nam cần cả hai cường quốc xã hội chủ nghĩa, còn chuyện họ có phụ thuộc vào nhau hay không thì không quan trọng.

Tuy nhiên, trong giai đoạn Khrushchev cầm quyền ở Liên Xô, Hà Nội bất đồng với Mátxcơva trên hai điểm căn bản. Thứ nhất là chủ trương chung sống hòa bình giữa hai hệ thống xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Chính sách này làm Hà Nội bất mãn, vì họ không tin Mỹ cũng muốn chung sống hòa bình, bằng chứng của họ là việc Washington ngày càng can thiệp sâu vào miền Nam. Thêm nữa, chủ trương chung sống hòa bình đi ngược lại ý đồ của Hà Nội là quyết tâm giải phóng miền Nam, kể cả bằng vũ lực. Thứ hai là chủ trương xét lại các giáo điều của Lênin và Stalin. Điều này gây hoang mang, xáo trộn tư tưởng trong cán bộ, khi mà Hà Nội lại đang rất cần thống nhất và ổn định tư tưởng để tranh đấu ở miền Nam. Trong lúc đó thì Trung Quốc cũng chủ trương dùng đấu tranh vũ trang để chống Mỹ và giương ngọn cờ chống xét lại để tiếp tục bám giữ các giáo điều. Do đó, tại Hội nghị trung ương 9 khóa 3 Đảng Lao động Việt Nam, tháng 12/1963, cùng với một nghị quyết “giải phóng miền Nam” là một nghị quyết “chống chủ nghĩa xét lại” của Liên Xô như một sự “ngả về” Trung Quốc. Tuy nhiên, như W. R. Smyser (1980: 80) nhận định, vấn đề đối với Hà Nội không phải là theo Trung Quốc hay ngả về Liên Xô hay giữ một vị trí cân bằng giữa hai bên. Chính sách của Hà Nội theo đuổi một mục tiêu không đổi: giành sự kiểm soát hoàn toàn miền Nam. Và Hà Nội sẽ nghiêng về bên nào ủng hộ mục tiêu đó.

Song chẳng bao lâu sau, vào cuối những năm 60, đầu những năm 70, quan điểm và đường lối đại chiến lược của Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu rời xa nhau. Bất đồng sâu sắc với Liên Xô mà không lôi kéo được phe xã hội chủ nghĩa theo mình, Trung Quốc quay ra giương cao ngọn cờ lãnh đạo các nước đang phát triển. Cuối những năm 60, Trung Quốc đưa ra viễn tượng “nông thôn thế giới bao vây thành thị thế giới”, trong đó “nông thôn thế giới” do Trung Quốc lãnh đạo, còn “thành thị thế giới” bao gồm cả Mỹ lẫn Liên Xô. Cũng trong khoảng thời gian này, Liên Xô đưa ra mô hình “ba dòng thác cách mạng thế giới”. Ba dòng thác ấy bao gồm chủ nghĩa xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa, và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước đang phát triển. Theo thuyết của Liên Xô, nước này lãnh đạo phe xã hội chủ nghĩa và lực lượng xã hội chủ nghĩa là chủ lưu của ba dòng thác cách mạng. Như vậy, Liên Xô là lãnh đạo của lãnh đạo. Việt Nam không nhận được vai trò gì quan trọng trong viễn tượng thế giới của Trung Quốc, nhưng vẫn có thể có chỗ đứng danh giá trong mô hình của Liên Xô. Đó là một lý do vì sao Bí thư thứ nhất Lê Duẩn nhanh chóng tiếp thu lý luận “ba dòng thác cách mạng” của Suslov, đồng thời gắn vào đó hình ảnh Việt Nam là “tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam Á” và “mũi nhọn của phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới”.

Ngoài ra, cũng trong khoảng thời gian cuối những năm 60, đầu những năm 70, một loạt biến cố quan trọng đã xảy ra trong chính sách và mối quan hệ của các nước lớn liên quan đến Việt Nam. Năm 1966, căng thẳng giữa Trung Quốc và Liên Xô bùng cháy thành xung đột biên giới. Năm 1967, Mỹ tổn thất nặng vì chiến tranh Việt Nam, Tổng thống Johnson không dám ra tranh cử tổng thống. Năm 1968, Nixon trúng cử tổng thống Mỹ, chuyển sang chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh. Cố vấn an ninh quốc gia Kissinger, một giáo sư sử học đặc biệt tâm đắc phương thức “cân bằng quyền lực” (balance of power), phương thức mà theo ông đã giúp châu Âu duy trì hòa bình trong suốt một thế kỷ (từ sau Chiến tranh Napoléon đến trước Thế chiến thứ 1), bí mật sang Trung Quốc thăm dò khả năng dùng nước này làm đối trọng với Liên Xô. Năm 1972, nhân chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống Mỹ Nixon, hai nước ký Tuyên bố chung Thượng Hải, đặt nền móng cho liên minh chiến lược chống lại Liên Xô. Sự bắt tay của Trung Quốc với Mỹ càng làm Việt Nam xích lại gần Liên Xô. Như Eero Palmujoki (1997: 48) nhận xét, việc Hà Nội tiếp thu lý luận “ba dòng thác cách mạng” là để thể hiện chính sách thân Liên Xô, vì quan điểm “ba dòng thác cách mạng” mà Liên Xô đưa ra năm 1969 về cơ bản không khác gì quan điểm “ba lực lượng cách mạng thế giới” mà Hội nghị các đảng cộng sản và công nhân đã thông qua vào năm 1960.

Năm 1975, chiến tranh kết thúc, nước Việt Nam thống nhất, quan hệ Việt-Trung đi vào một bối cảnh mới. Sự nghiệp “giải phóng miền Nam” đã hoàn tất, Việt Nam phải chuyển sang chiến lược lớn mới. Mục tiêu của sự nghiệp mới là “xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước”, mà một nội dung chính là đưa Việt Nam tiến kịp các nước phát triển về kinh tế. Lãnh đạo Việt Nam lúc đó tin tưởng rằng với vị thế rất cao trên trường quốc tế sau khi đã chiến thắng siêu cường số 1 thế giới, Việt Nam hoàn toàn có thể tranh thủ được nguồn lực của cả hai phe, của Liên Xô (vì Việt Nam đã có thành tích thắng Mỹ) cũng như của Mỹ (vì Mỹ đã hứa viện trợ nhiều tỉ đô la bồi thường chiến tranh), để thực hiện mục tiêu này. Song tính toán của Việt Nam hoàn toàn dựa trên sự hiểu sai thế giới bên ngoài, nhất là hiểu sai các nước lớn có ảnh hưởng quyết định đến số phận của Việt Nam là Mỹ, Trung Quốc cũng như Liên Xô. Không như Việt Nam nghĩ, Liên Xô mạnh tay giúp Việt Nam phần nhiều vì Việt Nam đứng trên tuyến đầu chống kẻ thù chiến lược của Liên Xô chứ không hẳn vì Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội cho bản thân. Bởi vậy, sau khi chiến tranh kết thúc, Liên Xô cùng các nước xã hội chủ nghĩa khác đã cắt giảm mạnh viện trợ cho Việt Nam, thay vì tiếp tục cho không để Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội. Khác với tin tưởng của Việt Nam, Mỹ chỉ giận chứ không sợ Việt Nam sau khi thua cuộc chiến. Do đó, Washington nhất định không chấp nhận lấy việc Mỹ viện trợ (Hà Nội đòi 3,2 tỉ đô la) làm điều kiện để bình thường hóa quan hệ. Đối với Trung Quốc, Việt Nam cho rằng cái uy chiến thắng siêu cường Mỹ sẽ khiến người láng giềng phương bắc phải nể. Nhưng sự mạnh lên của Việt Nam lại khiến Bắc Kinh coi Hà Nội như một đối thủ cần ngăn chặn. Do đó, Trung Quốc đã kết liên chiến lược với Campuchia để gây sức ép với Hà Nội từ phía nam.

Năm 1978, Trung Quốc đi vào một khúc quanh lịch sử. Đặng Tiểu Bình trở lại chính quyền – lần này không còn Mao Trạch Đông ngồi trên nữa vì ông đã chết từ 1976 – phát động một đại chiến lược mới. Vẫn hoài bão cũ: đưa Trung Quốc trở thành đại cường quốc thế giới, nhưng nhiệm vụ mới: “4 hiện đại hóa”, và phương thức thực hiện mới: tranh thủ sự cộng tác của phương Tây, đặc biệt là Mỹ. Trung Quốc từ bỏ quan điểm đấu tranh giai cấp trong quan hệ quốc tế, phấn đấu làm đồng minh chiến lược của Hoa Kỳ. Mô hình “3 thế giới” trong đó Trung Quốc có sứ mệnh lãnh đạo “thế giới thứ ba” (các nước đang phát triển), liên kết với “thế giới thứ hai” (các nước công nghiệp phát triển nhưng không phải siêu cường), để lật đổ sự thống trị của “thế giới thứ nhất” (gồm hai siêu cường Mỹ và Liên Xô), không còn giá trị. Thay vào đó là lợi ích dân tộc thuần túy và tư duy thực dụng: Trung Quốc phải tranh thủ được nước mạnh nhất thế giới về năng lực kinh tế, khoa học và quân sự, bất kể nước đó “màu gì” (Đặng: “Mèo trắng mèo đen không quan trọng, miễn là bắt được chuột”).

Các sự kiện có tính bước ngoặt trong hai năm 1977-78: Sự đổ vỡ trong quan hệ Việt-Trung, Mỹ cự tuyệt quan hệ ngoại giao với Việt Nam, Việt Nam gia nhập khối kinh tế của Liên Xô (Hội đồng Tương trợ Kinh tế) và ký liên minh phòng thủ (Hiệp ước Hòa bình, Hữu nghị và Hợp tác) với Liên Xô và các nước trong khối Vácsava, Campuchia gây hấn biên giới tây nam Việt Nam và Việt Nam đưa quân vào thay đổi chính phủ của Campuchia, diễn ra như là kết quả của sự đan xen đại chiến lược giữa các nước liên hệ, tiếp theo một chuỗi các sự kiện đã khởi sự từ cuối những năm 60, đầu những năm 70. Cuối năm 1978, Trung Quốc lập quan hệ ngoại giao với Mỹ, đầu năm 1979 đưa quân đánh Việt Nam trên toàn tuyến biến giới phía bắc, Việt Nam bị cả thế giới ngoài các nước thân Liên Xô tẩy chay. Việt Nam buộc phải chuyển sang một chiến lược lớn khác.

Liệu lịch sử có thể khác đi được không? Chẳng hạn như nếu sau năm 1975, Việt Nam không giải tán Cộng hòa miền Nam Việt Nam, hoặc thực hiện “một nước, hai chế độ”, không cải tạo công thương ở miền Nam, không nghiêng về một nước lớn nào mà tìm cách cân bằng ảnh hưởng của cả ba cường quốc Liên Xô, Trung Quốc, Hoa Kỳ, cố gắng tranh thủ nguồn lực của tư bản trong nước cũng như quốc tế, giữ thể diện cho Mỹ (như cha ông đã từng làm với Trung Quốc sau khi thắng họ) để bình thường hóa quan hệ và tranh thủ nguồn lực của Mỹ. Như Trần Quang Cơ (2001/2003) nhận định, trong các năm 1977-78, “ta đã bỏ lỡ mất cơ hội củng cố thế đứng của Việt Nam trong hòa bình để tập trung phát triển đất nước sau bao năm chiến tranh, lỡ cơ hội san bằng khoảng cách với các nước cùng khu vực” (tr. 6). Theo ông, Việt Nam đã có 4 sai lầm lớn là 1) không duy trì quan hệ cân bằng với Trung Quốc và Liên Xô, 2) quá cứng nhắc bắt Mỹ phải viện trợ, bỏ lỡ cơ hội bình thường hóa quan hệ với Mỹ năm 1977, 3) không gia nhập khối ASEAN từ 1976 khi cả 6 nước này đều muốn Việt Nam tham gia, 4) dính líu quá sâu và quá lâu vào Campuchia (tr. 7). Liệu những “sai lầm” này có phải là tất yếu không và nếu chúng không xảy ra thì tình hình có khác đi cơ bản hay không? Khó có thể trả lời những chữ “nếu” khi lịch sử đã là lịch sử. Song có thể thấy để chuyển lịch sử đi theo hướng khác đòi hỏi rất nhiều nỗ lực. Trước hết, những “sai lầm” nói trên dường như là kết quả của một sự “cộng hưởng chiến lược” làm cho cơ hội khác đi của lịch sử càng ngày càng thu hẹp. Sự cự tuyệt và thái độ thù địch của Mỹ đối với miền Nam Việt Nam sau 30/4/1975 càng làm cho Hà Nội thấy không cần thiết phải để Cộng hòa miền Nam Việt Nam tiếp tục tồn tại. Ngược lại, việc Việt Nam khăng khăng bắt Mỹ phải viện trợ làm điều kiện cho bình thường hóa đã góp phần thu hẹp cơ hội này, khiến Ngoại trưởng Cyrus Vance không còn con bài nào để chơi, và khi mà Cố vấn an ninh quốc gia Zbigniew Brzezinski đã bắt tay được với Trung Quốc thì sau đó Việt Nam đã trở thành một thứ “con tin” trong quan hệ Mỹ-Trung ( bạn đọc có thể xem Chanda (1986) để tìm hiểu kỹ hơn giai đoạn lịch sử bước ngoặt 1975-78). Thứ hai, nếu Việt Nam đi tìm một vị trí cân bằng giữa ba nước lớn, nhiều khả năng là các nước sẽ áp dụng cho Việt Nam một công thức như kiểu Nam Tư. Song, sau một chiến thắng vĩ đại như năm 1975, hình ảnh một “Nam Tư phương Đông” khó lòng hấp dẫn bằng hình ảnh ”tiền đồn phe xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam Á” và “mũi nhọn phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới”.

Các sự kiện năm 1978-79 đã xô đẩy Việt Nam vào một đại chiến lược mới. Phải can dự vào Campuchia, bị chiến tranh với Trung Quốc và bị phần lớn thế giới cô lập, Việt Nam buộc phải tìm kiếm cho mình một bảo đảm an ninh bằng cách lập vành đai an toàn ở Đông Dương, kết giao chặt chẽ và toàn diện với Liên Xô. Bởi thế, trong những năm 1980, quan hệ với Liên Xô trở thành “hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại” của Việt Nam, quan hệ với Lào và Campuchia trở thành “mối quan hệ đặc biệt”, thành “liên minh chiến lược ba nước Đông Dương”. Lần đầu tiên trong lịch sử, Việt Nam liên minh với một nước lớn khác để chống lại Trung Quốc. Cũng vậy, khu vực ảnh hưởng của Việt Nam ở Đông Dương trong giai đoạn này rộng hơn bất cứ thời kỳ nào khác trong lịch sử.

Các diễn biến của quan hệ Việt-Trung trong thời hiện đại cũng phơi bày khoảng cách lớn giữa mặt “hình thức” và mặt “thực chất” của quan hệ giữa hai nước. Về hình thức, hai nước đều thừa nhận trật tự thế giới kiểu Westphalia (mỗi quốc gia có chủ quyền như nhau) và kiểu Zhdanov (thế giới gồm hai phe: xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa). Nhưng thực chất, hành xử của Việt-Trung lại theo những lôgíc hoàn toàn khác. Không phải “Westphalia” mà là “thiên triều”: Trung Quốc đánh Việt Nam mà không cần bị tấn công trước để “dạy cho Việt Nam một bài học”. (Mỹ 1964 theo “Westphalia”: phải có sự kiện vịnh Bắc Bộ mới có cớ đưa quân vào Việt Nam). Không phải “phe xã hội chủ nghĩa một bên, phe tư bản chủ nghĩa một bên” mà là “chính trị thực tế” (Realpolitik – chính sách đối ngoại dựa trên thực tế tranh giành quyền lực, không dựa trên tiêu chuẩn đạo đức và ý thức hệ) và “cân bằng quyền lực”: Campuchia (xã hội chủ nghĩa) đánh Việt Nam (xã hội chủ nghĩa), Việt Nam đánh Campuchia, Trung Quốc (xã hội chủ nghĩa) đánh Việt Nam, Mỹ (tư bản chủ nghĩa) liên minh với Trung Quốc, Thái Lan (tư bản chủ nghĩa) làm hậu phương cho Khmer Đỏ.

Xung đột nhỏ lồng trong xung đột lớn, tất cả chịu sự chi phối của quan hệ giữa các nước lớn. Quan hệ Việt-Trung rơi vào một bối cảnh mới khi chiến lược của một nước lớn trong tam giác Mỹ-Trung-Xô thay đổi. Điều này đã xảy ra sau khi Nixon lên cầm quyền ở Mỹ (1968), khi Đặng Tiểu Bình lên cầm quyền ở Trung Quốc (1978), và một lần nữa xảy ra sau khi Gorbachov lên cầm quyền ở Liên Xô (1985). Gorbachev thực hiện một phương thức đại chiến lược mới. Vẫn nhắm mục tiêu giữ vững vị trí siêu cường của Liên Xô nhưng bằng cách cải tổ kinh tế (perestroika), minh bạch hóa nền chính trị (glasnost), hòa dịu với phương Tây và Trung Quốc. Ông định thông qua chính sách đối ngoại mới để 1) giảm áp lực đe dọa quân sự từ Mỹ và Trung Quốc, 2) nhận được vốn và công nghệ của phương Tây, nhằm vực dậy nền kinh tế kém hiệu năng của Liên Xô. Không rõ có phải do đánh giá đúng ý đồ của đối thủ hay không mà Trung Quốc đặt ba điều kiện tiên quyết để bình thường hóa quan hệ Xô-Trung là Liên Xô phải rút quân khỏi Afghanistan, chấm dứt ủng hộ Việt Nam can thiệp vào Campuchia, giảm quân dọc biên giới Xô-Trung. Sự cứng rắn của Đặng Tiểu Bình cuối cùng đã buộc Gorbachov nhượng bộ cả ba điều kiện. Lợi dụng xu hướng Liên Xô bỏ rơi Việt Nam để tập trung vào các vấn nạn trong nước, tạo ra khoảng trống quyền lực ở khu vực Biển Đông, đầu năm 1988, Trung Quốc tiến xuống cắm chốt trên quần đảo Trường Sa, nơi trước nay họ chưa hiện diện thường xuyên về quân sự. Trong chiến dịch này, Trung Quốc chọn mỗi vùng một vị trí chiến lược để đổ bộ: đá Chữ Thập ở rìa phía tây, đá Subi ở mỏm phía bắc, đá Châu Viên ở dải phía nam, và ở cụm trung tâm là các đá Gaven, Kennan và Gạc Ma. Tại Gạc Ma đã xảy ra đụng độ với Việt Nam sáng ngày 14/3/1988, kết quả Trung Quốc chiếm được đảo này và Việt Nam mất ba tàu chiến cùng hơn 70 thủy thủ.

Hai đại chiến lược, hai thế giới quan

Sự thay đổi đại chiến lược của Liên Xô cộng với tình hình bản thân của Việt Nam (kinh tế suy sụp, chiến tranh ở Campuchia trở thành gánh nặng) cũng buộc Việt Nam phải tìm hướng đi mới. Tháng 5/1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 13 điều chỉnh chiến lược từ “hợp tác toàn diện với Liên Xô” sang “đa dạng hóa, đa phương hóa”. Nghị quyết này là tác phẩm của Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch, thể hiện bước ngoặt quan trọng trong tư duy đối ngoại cũng như đánh dấu bước chuyển lớn trong chính sách quốc tế của Việt Nam. Giống như Nghị quyết 9 năm 1963, Nghị quyết 13 không được đưa ra công khai, chỉ từ nửa sau thập niên 90 mới được nhắc đến như văn kiện mở màn chính sách đối ngoại “đa dạng hóa, đa phương hóa” mà Đại hội đảng 7 (1991) đã thông qua. Cơ sở lý luận của Nghị quyết 13 là một viễn tượng thế giới hoàn toàn khác với những gì Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn mường tượng từ năm 1948, thậm chí từ 1930. Trong tinh thần “đổi mới tư duy”, kể cả tư duy đối ngoại, Phan Doãn Nam, cánh tay phải của Nguyễn Cơ Thạch về lý luận, viết bài “Một vài suy nghĩ về đổi mới tư duy đối ngoại” đăng trên Tạp chí Cộng sảntháng 2/1988 như một bước chuẩn bị cho Nghị quyết 13. Bài báo chỉ trích mô hình “hai phe, bốn mâu thuẫn”, nền tảng thế giới quan của chính sách đối ngoại Việt Nam từ 1948, là giáo điều, không đúng với thực tế. Thay vào đó, bài báo đề xuất coi thế giới ngày nay đầy dẫy các mâu thuẫn phức tạp với đặc điểm nổi bật là sự “tùy thuộc lẫn nhau” giữa các quốc gia bất kể chế độ chính trị-xã hội, một quan điểm vay mượn từ “tư duy mới” của Liên Xô. Theo bài báo, chính sự tùy thuộc lẫn nhau đã làm thay đổi bản chất của chủ nghĩa tư bản và thay đổi mục tiêu của chủ nghĩa đế quốc. Không nói ra, nhưng tư tưởng này đã ngầm bác bỏ quan điểm “chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản” của Lênin (chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn phát triển tột cùng của nó sẽ dẫn đến hình thức tư bản độc quyền, dẫn đến chủ nghĩa đế quốc, là nguồn gốc của chiến tranh thế giới, cách mạng vô sản là con đường duy nhất bảo vệ hòa bình thế giới), học thuyết nền tảng cho chính sách đối ngoại của các nước xã hội chủ nghĩa từ xưa đến nay.

Mặc dù Nghị quyết 13 với đường lối “đa dạng hóa, đa phương hóa” được thông qua nhưng cơ sở lý luận của nó không được hoàn toàn chấp nhận. Lý do là trong những vấn đề lý luận có tính nền tảng, lãnh đạo Việt Nam quyết định trên cơ sở hoàn toàn nhất trí. Chỉ cần “một số đồng chí” không thông thì vẫn phải gác lại bàn sau (Porter 1990: 13). Kết quả là “tư duy mới” và “tư duy cũ” cùng nhau tồn tại song song như một kiểu “tam giáo đồng nguyên” (so sánh của Vũ Quang Việt).

Một lý do nữa cho sự củng cố trở lại của thế giới quan “hai phe, bốn mâu thuẫn” là ảnh hưởng của các sự kiện ở Đông Âu năm 1989 vào Việt Nam. Sự tan rã của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu đã dẫn đến tranh cãi gay gắt trong giới lãnh đạo Việt Nam. Một bên, trong đó có Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, khẳng định nguyên nhân chủ yếu là do “mưu đồ của chủ nghĩa đế quốc hòng tiêu diệt chủ nghĩa xã hội”. Bên kia, trong đó có Nguyễn Cơ Thạch, cho rằng nguồn gốc sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu là sự quản lý yếu kém và tư tưởng giáo điều gắn với một mô hình chủ nghĩa xã hội sai lầm. Phát biểu tại Hội nghị trung ương 7 khóa 6 (tháng 8/1989), Nguyễn Văn Linh nói sự bác bỏ quan điểm “hai phe, bốn mâu thuẫn” đã khiến một số người lầm tưởng rằng chủ nghĩa đế quốc đã thay đổi bản chất. Câu nói ám chỉ Nguyễn Cơ Thạch và đồng chí. Mâu thuẫn về thế giới quan giữa hai bên được Nguyễn Văn Linh chốt lại: “Chừng nào chủ nghĩa đế quốc còn tồn tại, chừng nào chủ nghĩa xã hội chưa thắng lợi trên phạm vi toàn thế giới, thì chừng đó học thuyết của chủ nghĩa Lênin vẫn giữ nguyên giá trị của nó” (“Phát biểu của đồng chí Nguyễn Văn Linh. Bế mạc Hội nghị 7 của Ban chấp hành Trung ương Đảng”, Tạp chí Cộng sản, 9/1989, tr. 6). Tuy nhiên, không bên nào áp đảo được bên nào nên tại Hội nghị trung ương 8, tháng 11/1989, giải pháp “hòa cả làng” được áp dụng. Nghị quyết của Hội nghị một mặt chỉ ra nguyên nhân của sự sụp đổ chế độ ở Đông Âu là “những sai lầm chủ quan, duy ý chí” của lãnh đạo các nước đó, mặt khác khẳng định “chủ nghĩa đế quốc đã lợi dụng những khó khăn bên trong của chủ nghĩa xã hội để thực hiện các mưu đồ chống cộng của chúng”.

Hai năm 1988-89 là thời gian bản lề cho chính sách đối ngoại của Việt Nam suốt những năm sau. Thời gian này hình thành thế “hai chân” trong tư duy đối ngoại của Việt Nam. Chính sách đối ngoại của Việt Nam trong thời hậu Chiến tranh Lạnh dựa trên hai đại chiến lược khác nhau. Sở dĩ là hai mà không phải là một vì chúng mang hai ý đồ khác nhau và dựa trên hai quan điểm trái ngược nhau về thế giới.

Chiến lược lớn thứ nhất dựa trên thế giới quan Mác-Lê, nhìn thế giới qua lăng kính “2 phe, 4 mâu thuẫn”, coi mâu thuẫn giữa “chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa đế quốc/tư bản” là mâu thuẫn cơ bản nhất, đấu tranh giai cấp giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa đế quốc/tư bản là động lực cơ bản cho vận động chính trị toàn cầu. Bước vào thời kỳ sau Chiến tranh Lạnh, sự sụp đổ của Liên Xô đặt ra cho Việt Nam một yêu cầu mới. Từ góc nhìn của thế giới quan Mác-Lê, mục tiêu lớn của Việt Nam được xác định là phải bảo vệ chủ nghĩa xã hội thế giới, Việt Nam phải coi Trung Quốc là đồng minh chiến lược, Mỹ là kẻ thù chiến lược, phải đặt trọng điểm an ninh quốc gia vào chống “diễn biến hòa bình”. Chiến lược lớn này lấy “chống đế quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội” làm mục tiêu lâu dài và cơ bản. (Xem thêm các chương 9, 10 và 14 trong hồi ký của Trần Quang Cơ (2001/2003) về quan điểm chiến lược theo hướng này của Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh).

Chiến lược lớn thứ hai dựa trên thế giới quan mới được hình thành trong thời kỳ “đổi mới tư duy” cuối những năm 80. Thế giới quan này gồm hai chiều: kinh tế và chính trị. Về kinh tế, nó coi thế giới như một thị trường thống nhất, liên thuộc vào nhau, vận động theo xu hướng toàn cầu hóa và khu vực hóa. Các nước muốn sống còn không có cách nào khác là phải tham gia vào “phân công lao động quốc tế mới”, phải hội nhập vào nền kinh tế thế giới và hội nhập khu vực. Về chính trị, mâu thuẫn cơ bản được coi là mâu thuẫn giữa các quốc gia-dân tộc, cục diện thế giới về cơ bản được xem là chịu sự chi phối của mối tương quan giữa các “nước lớn”. Chiến lược của Việt Nam trong tình hình mới (các nước lớn hòa hoãn, chuyển sang chạy đua kinh tế, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập khu vực gia tăng) là phải “hội nhập” mạnh mẽ vào thế giới và khu vực, đặc biệt tranh thủ nguồn lực của các trung tâm tài chính-công nghệ thế giới (Mỹ, Nhật Bản, Tây Âu), thực hiện ngoại giao đa phương, tạo thế cân bằng trong quan hệ với các nước lớn, đặc biệt là Mỹ và Trung Quốc. Trọng điểm an ninh quốc gia, theo chiến lược lớn thứ hai, là chống “tụt hậu”. Chiến lược lớn này lấy “phát triển, hiện đại hóa” làm mục tiêu lâu dài và cơ bản. (Xem thêm cuốn sách của Nguyễn Cơ Thạch (1998) và thư gửi Bộ chính trị của Võ Văn Kiệt (1995) về quan điểm chiến lược theo hướng này).

Một câu hỏi đặt ra là tại sao ở Trung Quốc các mục tiêu phát triển, hiện đại hóa, cũng như chống đế quốc (TQ dùng từ “bá quyền”), bảo vệ chủ nghĩa xã hội cùng nằm trong một đại chiến lược mà ở Việt Nam lại là hai? Mấu chốt nằm ở chỗ Trung Quốc không chống đế quốc theo định nghĩa của Lênin (đế quốc đồng nghĩa với tư bản) mà chống bất cứ nước nào có mưu đồ bá quyền trên thế giới cũng như ở châu Á (Trung Quốc từng gọi Liên Xô là “đế quốc xã hội”), và Trung Quốc chỉ bảo vệ chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc chứ không bảo vệ chủ nghĩa xã hội trên thế giới như Việt Nam (lời Đại sứ Trung Quốc nói với Vụ trưởng Vụ Trung Quốc Bộ Ngoại giao Việt Nam ngày 27/7/1990, xem hồi ký Trần Quang Cơ, tr. 19). Như vậy tuy nhìn bề ngoài thì mục tiêu của Trung Quốc và Việt Nam có vẻ không khác nhau là mấy nhưng về nội dung thì khác nhau cơ bản vì dựa trên hai thế giới quan khác hẳn nhau. Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công đã chỉ ra điều này tại cuộc họp Bộ Chính trị ngày 19/6/1990: “Trung Quốc lấy lợi ích dân tộc của họ là chính, không phải theo lợi ích chung của chủ nghĩa xã hội. Họ khác ta. Dù ta có muốn hợp tác họ cũng không chịu đâu. Không nên ảo tưởng” (Trần Quang Cơ 2003: 43). Điều có vẻ nghịch lý là chiến lược “phát triển, hiện đại hóa” (không chủ trương liên minh chiến lược với Trung Quốc) dựa trên một thế giới quan giống với của Trung Quốc, trong khi chiến lược “chống đế quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội” (chủ trương liên minh chiến lược với Trung Quốc) lại có một thế giới quan khác hẳn của Trung Quốc.

Trong những năm 90, một sự “phân công lao động” giữa hai chiến lược lớn đối ngoại đã được dàn xếp. Sự phân công này thể hiện rõ trong cơ cấu và cơ chế lãnh đạo sau Đại hội Đảng 7. Chủ tịch nước Lê Đức Anh, đại diện chiến lược “chống đế quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội”, phụ trách khối ngoại giao-quốc phòng-an ninh. Thủ tướng Võ Văn Kiệt, đại diện cho chiến lược “phát triển, hiện đại hóa”, phụ trách mảng kinh tế. Tổng bí thư Đỗ Mười đóng vai trò dàn xếp giữa hai chiến lược, là người quyết định cuối cùng.

Hai nhà lãnh đạo cao cấp thúc đẩy đường lối “phát triển” và đại diện cho thế giới quan và quan điểm chiến lược này là Nguyễn Cơ Thạch (Ngoại trưởng 1980-1991) và Võ Văn Kiệt (Thủ tướng 1991-1996). Những người kiên quyết giữ vững thế giới quan Mác-Lê và chủ trương đường lối chiến lược tương ứng là Nguyễn Văn Linh (Tổng bí thư 1986-1991), Lê Đức Anh (Chủ tịch nước 1991-1996), Đào Duy Tùng (Thường trực Ban Bí thư 1991-1996), Nguyễn Đức Bình (lý thuyết gia trưởng của Đảng 1991-1996), Lê Khả Phiêu (Tổng bí thư 1997-2001). Như vậy, mặc dù chính sách ngoại giao “đa dạng hóa, đa phương hóa” được các kỳ Đại hội Đảng liên tục khẳng định tính chính thống, quan điểm “hai phe, bốn mâu thuẫn” vẫn ở thế thượng phong. Thế thượng phong của đại chiến lược “chống đế quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội” có phần do cú sốc tâm lý bởi các “sự kiện định hướng” của các năm 1989-90-91. Đó là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu, các đảng “bạn” mất chính quyền ở hàng loạt nước, sự tan rã của Liên Xô.

Suy nghĩ thông thường cho rằng các sự kiện này khiến cho Việt Nam mất đi nguồn viện trợ lớn, thị trường truyền thống và chỗ dựa chính về ngoại giao. Thật ra, các sự kiện Đông Âu năm 1989-90 không có mấy ảnh hưởng “khách quan” lên nền kinh tế Việt Nam mà phần nhiều là ảnh hưởng “chủ quan” lên tâm lý người lãnh đạo. Số liệu thống kê cho thấy năm 1989, Việt Nam đã bắt đầu xuất khẩu dầu thô và gạo ở mức độ đáng kể. Năm 1989 xuất khẩu 1,4 triệu tấn gạo, trong khi chỉ 3 năm trước (1986) lượng gạo xuất khẩu là 0,158 triệu tấn. Cũng ngay trong năm 1989, giá trị xuất khẩu sang khu vực ngoại tệ chuyển đổi (các nước tư bản) tăng vọt lên 1,139 tỉ đô la từ con số 350 triệu đô la của năm 1988. Trong khi năm 1988, xuất khẩu sang khu vực ngoại tệ không chuyển đổi (các nước xã hội chủ nghĩa) còn chiếm 55,6 % tổng giá trị xuất khẩu thì năm 1989, xuất khẩu sang các nước tư bản đã chiếm 58,5% tổng giá trị xuất khẩu. Năm 1991, tuy xuất khẩu sang thị trường các nước xã hội chủ nghĩa sụt hẳn xuống còn 80 triệu rúp từ con số 1,1 tỉ rúp của năm trước, nhưng xuất khẩu sang các nước tư bản cũng tăng mạnh lên gần 1,9 tỉ đô la, khiến tổng giá trị xuất khẩu năm 1991 tuy thấp hơn năm 1990 nhưng vẫn cao hơn năm 1989 (Các số liệu trên theo Tổng cục Thống kê, Số liệu thống kê Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1986-1991. Hà Nội: Nxb Thống kê, 1992, tr. 93-94). Do sự chuyển hướng chiến lược trong các năm 1987-88 cho nên ngay trong thời gian xảy ra các sự biến ở Đông Âu và Liên Xô (1989-91), Việt Nam đã tạo được xu thế hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực, tạo được chỗ bám vào thị trường thế giới. Vốn đầu tư nước ngoài (đăng ký) tăng từ 371 triệu đô la năm 1988 lên 582 triệu năm 1989, 839 triệu năm 1990 và 1,322 tỉ năm 1991. Xuất khẩu sang các nước tư bản tăng từ 448 triệu đô la năm 1988 lên 1,138 tỉ năm 1989, 1,352 tỉ năm 1990, và 2,010 tỉ năm 1991. Nhập khẩu từ các nước tư bản cũng tăng từ 804 triệu đô la năm 1988 lên 879 triệu năm 1989, 1,372 tỉ năm 1990, và 2,049 tỉ năm 1991. Như vậy ngay trong năm 1991, tức là trước khi Liên Xô sụp đổ, Việt Nam đã thu được ở thị trường các nước tư bản khoảng 2 tỉ đô la tiền xuất khẩu, gấp đôi số tiền thu được từ bán hàng sang các nước xã hội chủ nghĩa vào thời điểm đỉnh cao trước đây (1,1 tỉ rúp năm 1990). Mặt khác, nếu viện trợ kinh tế và vay nợ từ các nước xã hội chủ nghĩa (ước khoảng 1-2 tỉ đô la một năm trong những năm 80) mất đi thì Việt Nam lại được bù đắp một khoản tương ứng từ đầu tư trực tiếp của nước ngoài cũng như các khoản viện trợ và cho vay từ các nước tư bản. Năm 1991 Việt Nam nhận được 1,079 tỉ đô la cho vay và 526 triệu viện trợ từ nước ngoài. Ngoài ra còn có hơn 1,3 tỉ đô la đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cam kết. (Các số liệu trên theo Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 1995. Hà Nội: Nxb Thống kê, 1996, tr. 51, 64, 253; các số liệu thống kê chỉ có tính tương đối, lưu ý sự khác nhau giữa TCTK 1992 và TCTK 1996 về giá trị xuất khẩu sang khu vực ngoại tệ chuyển đổi năm 1991). Tóm lại, không thể nói sự tan rã của Liên Xô và khối xã hội chủ nghĩa đã tác hại nặng nề lên nền kinh tế Việt Nam.

Ngược lại, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở một loạt nước liên tiếp đã gây phản ứng tâm lý mạnh trong đông đảo cán bộ lãnh đạo Việt Nam. Sự sụp đổ của khối xã hội chủ nghĩa gây ra hụt hẫng nghiêm trọng trong hình dung về thế giới của họ. Nhìn thế giới qua lăng kính “2 phe, 4 mâu thuẫn” nhiều người trong số họ lo sợ rằng sau Đông Âu sẽ đến lượt Việt Nam, cảm nhận mối nguy hiểm lớn nhất xuất phát từ Mỹ, coi liên minh giữa các chế độ xã hội chủ nghĩa còn lại là yêu cầu khách quan của tình thế. Yêu cầu chống đế quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội đối với họ trở nên cấp bách hơn yêu cầu phát triển, hiện đại hóa. Hai yêu cầu này tự chúng không mâu thuẫn với nhau. Song đặt trong hoàn cảnh thực tế, muốn phát triển, hiện đại hóa thì phải cộng tác với các trung tâm kinh tế và khoa học hiện đều do các nước tư bản phương Tây nắm, yêu cầu chống đế quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội trở nên mâu thuẫn với yêu cầu phát triển, hiện đại hóa.

Do người lãnh đạo cao nhất trong thời kỳ 1990-91 nhiệt tâm theo đuổi mục tiêu đại chiến lược bảo vệ chủ nghĩa xã hội trong cuộc đấu tranh toàn cầu với chủ nghĩa tư bản/đế quốc, mặc dù Bộ Chính trị bất đồng về đánh giá tình hình quốc tế cũng như phương hướng đối ngoại, động cơ đại chiến lược này đã chi phối Việt Nam trong quá trình “bình thường hóa” quan hệ với Trung Quốc cũng như trong việc tìm giải pháp cho vấn đề Campuchia. Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh nói trong cuộc họp Bộ Chính trị ngày 10/4/1990: “Việt Nam và Trung Quốc là hai nước xã hội chủ nghĩa cùng chống âm mưu đế quốc xóa bỏ chủ nghĩa xã hội, phải cùng chống đế quốc. Trước hết phải phát triển quan hệ giữa hai nước, các vấn đề khác giải quyết sau … Một Campuchia thân thiện với Trung Quốc, thân thiện với Việt Nam là tốt nhất. Trên cơ sở điểm đồng này mà giải quyết vấn đề Campuchia có lợi cho Campuchia … Không để Liên Hợp Quốc nhúng tay vào vì Liên Hợp Quốc là Mỹ, Thái Lan là Mỹ” (Trần Quang Cơ 2003: 33).

Cùng một chủ trương bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, nhưng mỗi đại chiến lược có một động cơ khác nhau. Chiến lược lớn thứ nhất xuất phát từ động cơ “đoàn kết với Trung Quốc bảo vệ chủ nghĩa xã hội, chống đế quốc”. Chiến lược lớn thứ hai xuất phát từ động cơ “đa phương hóa quan hệ, phá thế bị bao vây”. Quá trình bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc trong các năm 1990-91, về lý thì là “thực hiện Nghị quyết 13 Bộ Chính trị” nhưng thực chất không phải nhằm đa phương hóa, tạo thế cân bằng giữa các nước lớn, như tinh thần của những người dự thảo Nghị quyết 13, mà động cơ thực sự, như Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh giải thích cho lãnh đạo Campuchia về cuộc gặp cấp cao Việt-Trung ở Thành Đô, là: ”Mỹ và phương Tây muốn cơ hội này để xóa cộng sản. Nó đang xóa ở Đông Âu. Nó tuyên bố là xóa cộng sản trên toàn thế giới. Rõ ràng nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Ta phải tìm đồng minh. Đồng minh này là Trung Quốc” (Trần Quang Cơ 2003: 51).

Mặc dù Trung Quốc nhiều lần nói thẳng với Việt Nam là họ không chấp nhận “giải pháp đỏ” ở Campuchia cũng như không thể bắt tay với Việt Nam theo kiểu hai nước xã hội chủ nghĩa liên minh lại chống Mỹ, và mặc dù trong Bộ Chính trị cũng đã có nhiều ý kiến rằng đại chiến lược của Trung Quốc là tranh thủ Mỹ và phương Tây để thực hiện “bốn hiện đại hóa”, do đó không thể liên minh chiến lược với Việt Nam, song các lãnh đạo cao nhất của Việt Nam vẫn hy vọng một ngày kia Trung Quốc sẽ “hiểu ra” mà bắt tay với Việt Nam chống Mỹ (Trần Quang Cơ 2001/2003). Trong cuộc gặp cấp cao Việt-Trung 5-10/11/1991 hoàn tất việc bình thường hóa quan hệ, Việt Nam lại đề nghị Trung Quốc “đoàn kết bảo vệ chủ nghĩa xã hội chống đế quốc”, song Trung Quốc đã khẳng định hai bên là “đồng chí, không là đồng minh” (Thayer 1994). Cho đến tận cuối những năm 1990, Tổng bí thư Lê Khả Phiêu vẫn tiếp tục đề nghị Trung Quốc kết đồng minh bảo vệ chủ nghĩa xã hội và một lần nữa lại bị bác bỏ (N.S.P., “Thư Hà Nội”, Diễn Đàn, số 104, tháng 2/2001).

Vậy tại sao vẫn kéo dài tình trạng “lưỡng giáo đồng nguyên” mà không hợp được hai mục tiêu vào làm một, chẳng hạn như mô hình Trung Quốc? Có thể do nhiều nguyên nhân tác động rất phức tạp với nhau. Cũng có thể vì những lý do rất giản dị như thói quen, nếp nghĩ, niềm tin của một số người rất có thế lực v.v. Bài viết này chỉ nêu một giả thuyết có tính gợi ý. Thứ nhất, như trên đã phân tích, mục tiêu bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và chống bá quyền của Trung Quốc khác mục tiêu bảo vệ chủ nghĩa xã hội, chống đế quốc của Việt Nam về nội dung nên không thể lấy Trung Quốc làm gương. Mặt khác nếu hai đại chiến lược khác nhau cả về mục tiêu phấn đấu lẫn thế giới quan làm nền tảng thì không còn điểm chung nào để có thể hòa vào làm một. Thứ hai, vì cả hai đại chiến lược của Việt Nam sau Chiến tranh Lạnh đều không tới, đều bất cập, nhưng mỗi cái cũng lại có điểm mạnh riêng, và điểm mạnh của chiến lược này lại là điểm yếu của chiến lược kia, cho nên cả hai đứng riêng bổ xung cho nhau thì dễ mà cái này đồng hóa cái kia thì khó, và cũng chưa tìm ra được cái nào khác thay thế, cho nên cứ nhùng nhằng “lưỡng giáo đồng nguyên”.

Đại chiến lược chống đế quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội nhấn mạnh Việt-Trung cùng phe chống Mỹ, cũng như khi xưa, cả hai cùng là “văn minh” chống lại “man di”, thì nay, cùng “xã hội chủ nghĩa” (hiểu: tiến bộ) chống “tư bản đế quốc” (hiểu: phản động). Như vậy là hợp với yêu cầu của bài toán chống đế quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải liên minh với cường quốc xã hội chủ nghĩa lớn nhất. Nhưng không gặp thời cơ vì muộn nhất là từ 1978, Trung Quốc đã không còn coi Việt Nam cùng phe, đồng thời luôn đặt yêu cầu hợp tác với Mỹ lên trên yêu cầu chống Mỹ. Vì thế điểm mấu chốt của chiến lược này không thực thi được.

Đại chiến lược phát triển, hiện đại hóa nhấn mạnh hội nhập, hợp tác với phương Tây, giữ thế cân bằng giữa các cường quốc. Như vậy là hợp với yêu cầu của bài toán phát triển, hiện đại hóa đòi hỏi phải có hòa bình, phải tranh thủ được các nước phát triển nhất. Nhìn chung, chiến lược này là hợp thời vì nó phù hợp với xu hướng hội nhập khu vực và việc tạo thế cân bằng giữa các cường quốc (chủ yếu là giữa Trung Quốc và Mỹ) có thể coi là khả thi trong điều kiện quan hệ các nước lớn đang ở giai đoạn hòa hoãn. Vậy thì điểm yếu của chiến lược “hiện đại hóa” và cũng là điểm mạnh của chiến lược “chống đế quốc” nằm ở đâu? Ở đây thử nêu giả thuyết là chiến lược “bảo vệ chủ nghĩa xã hội” có thể đáp ứng tốt hơn chiến lược “hiện đại hóa” về hai nhu cầu: hãnh diện và an toàn.

Chiến lược “hiện đại hóa” nhận Việt Nam là nước nhỏ, chịu sự chi phối của quan hệ nước lớn, không đóng vai trò gì quan trọng trên trường quốc tế. Nó đề ra mục tiêu phấn đấu là “hóa rồng” như các nước công nghiệp hóa ở Đông Á nhưng không nêu cụ thể hơn. Hóa thành rồng gì? Rồng đầu đàn hay rồng cuối đàn, rồng to hay rồng nhỏ? Nếu chỉ hóa rồng chung chung thì đó mới chỉ là một nửa mong ước của người Việt Nam. Tâm lý Việt Nam thích “ta phải nhất”, không thích làm kẻ “thường thường bậc trung”, càng không thích làm kẻ “vô danh tốt tiểu”. Tuy vẫn quen “luồn lách” nhưng vẫn thích được tiếng là “mũi nhọn”, “tiền đồn”.

Mặt khác, nếu Việt Nam muốn hóa rồng thì phải chọn lựa: 1) hoặc là phải bỏ hệ ý thức vô sản để có thể theo mô hình Đông Á, 2) hoặc vẫn giữ hệ ý thức đó và một mình làm chuyện vô tiền khoáng hậu, 3) hoặc theo sau Trung Quốc, họ đi đâu mình theo đó. Quá trình đổi mới của Việt Nam đã không theo lựa chọn 1. Hiện còn quá sớm để kết luận liệu Việt Nam theo hướng 2 hay hướng 3. Vì nếu đi theo Trung Quốc, Việt Nam rồi cũng sẽ phải từ bỏ ý thức hệ vô sản, phải chấp nhận tư sản, cả trong Hiến pháp lẫn trong Đảng. Có thể Việt Nam còn đang chờ xem, nếu Trung Quốc thành công thì sẽ làm theo. Dù thế nào, việc không chọn hướng 1 mà chọn hướng 2 hoặc 3 có nghĩa rằng nhu cầu an toàn là rất lớn đối với Việt Nam. Thậm chí, trong mắt một số người, hướng thứ ba còn cho sự an toàn kép: cứ để Trung Quốc nghĩ hộ và làm trước, chờ họ thành công mình sẽ làm theo, thêm nữa, bắt chước Trung Quốc sẽ làm Trung Quốc vừa lòng (Điều sau này không hẳn đã đúng). Tuy theo hướng này cũng có rủi ro. Như Tổng bí thư Lê Khả Phiêu có lần nói: “Nếu Trung Quốc thành công, chúng tôi sẽ thành công. Nếu Trung Quốc thất bại, chúng tôi sẽ thất bại” (Nayan Chanda, “Friend of Foe?”, Far Eastern Economic Review, 22/6/2000, tr. 32).

Sau 11/9/2001, thời kỳ chuyển tiếp “hậu Chiến tranh Lạnh” kết thúc, tất cả các nước lớn đều điều chỉnh lại chiến lược của mình. Hay nói đúng hơn, thời kỳ nhì nhằng chiến lược sau CTL đã chấm dứt, các nước lớn đã rõ hơn về đường hướng và mục tiêu đại chiến lược của mình. Liệu Việt Nam có thể đóng vai trò gì trong mô hình trật tự thế giới mới của Mỹ và Trung Quốc? Đây sẽ là một câu hỏi quyết định chính sách đối ngoại của Việt Nam trong tương lai.

Kết luận

Quan hệ Việt-Trung trong gần 2200 năm lịch sử của nó đã trải qua nhiều thăng trầm biến đổi. Có lúc Việt Nam là quận huyện của Trung Quốc mà cũng có lúc Việt Nam lại thuộc về Pháp, lấn lướt được Trung Hoa. Có lúc Việt Nam chịu thần phục Trung Quốc nhưng có lúc lại liên minh với Liên Xô để đối đầu lại Trung Hoa. Mỗi giai đoạn như vậy, trong nội bộ Việt Nam cũng như Trung Quốc đều có các quan điểm khác nhau. Phía Việt Nam có phe nhấn mạnh điểm đồng và có phe nhấn mạnh điểm dị. Phía Trung Quốc có phái coi Việt Nam như kẻ trong nhưng cũng có phái xem Việt Nam như người ngoài.

Tuy nhiên, xuyên suốt gần 22 thế kỷ, tương quan vị thế giữa Việt và Trung vẫn mang một hằng số. Quan hệ Việt-Trung có thể ví như quan hệ giữa một người và một con chip (micro- processor) gắn vào thân thể người đó:

không rời nhau được, nhưng lại
không đồng hóa được nhau, nhất là
không bao giờ cùng đẳng cấp,
và nhiều đặc điểm khác.
Xuyên suốt gần 22 thế kỷ, cái nhìn của Trung Quốc về Việt Nam giống như cái nhìn của một người về con chip gắn vào thân thể người đó. Cái nhìn của Việt Nam về Trung Quốc giống như cái nhìn của con chip về cơ thể mà nó gắn vào.

* Cornell University, Ithaca, New York, Mỹ. Tác giả cảm ơn hai người thẩm định của Thời Đại Mới, các anh Cao Huy Thuần, Ngô Vĩnh Long, Keith Taylor, James Anderson và Vũ Hữu Nghị về những phê bình, gợi ý và nhận xét quý báu, đặc biệt cảm ơn anh Vũ Quang Việt đã cung cấp một số tài liệu và ý kiến giá trị cũng như đã khích lệ viết bài này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

(một số tác phẩm tiêu biểu về từng đề tài)

Về lịch sử Việt Nam Cổ, Trung và Cận đại, các quan hệ kinh tế-xã hội và đối ngoại, xem: Lê Thành Khôi, Le Viêt-Nam: Histoire et civilisation. Paris: Minuit, 1955; Lê Thành Khôi, Histoire du Viêt Nam: des origines à 1858. Paris: Sudestasie, 1981.
Về lịch sử Việt Nam thời Cổ và Trung đại, các quan hệ kinh tế-xã hội đặt trong bối cảnh quốc tế, xem: Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh, Lịch sử Việt Nam, Tập 1. Hà Nội: Nhà xuất bản Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, 1981.
Về quan hệ Việt-Trung thời Bắc thuộc, sự hình thành ý thức bản ngã Việt từ sự tiếp xúc và cọ sát với các cộng đồng người láng giềng, xem: Keith W. Taylor, The Birth of Vietnam. Berkeley: University of California Press, 1983.
Về so sánh hai mô hình chính trị Việt Nam (thời Nguyễn) và Trung Quốc (thời Thanh), xem: Alexander B. Woodside, Vietnam and the Chinese Model: A Comparative Study of Vietnamese and Chinese Government in the First Half of the Nineteenth Century. Cambridge, MA: Harvard University Press, 1971.

Về trật tự thế giới kiểu Tàu và quan niệm cổ truyền của Trung Quốc về trật tự thế giới, xem: John K. Fairbank (bt.) The Chinese World Order: Traditional China’s Foreign Relations. Cambridge, MA: Harvard University Press, 1968; Charles P. Fitzgerald, The Chinese View of Their Place in the World, London: Oxford University Press, 1964.

Về viễn tượng của Việt Nam về thế giới, quốc gia và quốc gia trong thế giới qua các thời kỳ, xem: Alexander L. Vuving, “The References of Vietnamese States and the Mechanisms of World Formation”, Asien, số 79, tháng 4/2001, tr. 62-86.
Về vận động địa chính trị và đại chiến lược của Việt Nam từ cổ xưa đến trước lúc thuộc Pháp, xem: Vũ Hoằng Dương, “Nghĩ vào cuối thế kỷ: Nước non, non nước …” (2 phần), Cánh Én, số 45 và 47, 1995.

Về đại chiến lược của Việt Nam trong thời kỳ Trung đại, cũng như thái độ của Việt Nam với Trung Quốc xem: Trần Quốc Vượng, “Tradition, Acculturation, Renovation: The Evolution Pattern of the Vietnamese Culture”, trong David G. Marr, A. C. Milner (bt.) Southeast Asia in the 9th to the 14th Centuries. Singapore: Institute for Southeast Asian Studies, 1988; Trần Quốc Vượng, “Dân gian và bác học”, in lại trong cùng tác giả, Trong cõi. Garden Grove, CA: Trăm Hoa, 1993, tr. 159-195; Trần Quốc Vượng, “Tây Sơn Quang Trung và công cuộc đổi mới đất Việt ở thế kỷ XVIII”, in lại trong cùng tác giả, Trong cõi. Garden Grove, CA: Trăm Hoa, 1993, tr. 65-75.

Về thái độ của Việt Nam đối với Trung Quốc, trong so sánh với Nhật Bản, xem: Vĩnh Sính, “‘Hồn Đại Việt, giọng Hàn Thuyên’ – vị trí lịch sử của Trung Quốc đối với Việt Nam và Nhật Bản”, Diễn Đàn, số 26, tháng 1/1994, tr. 28-30.
Về đặc điểm sự giao lưu giữa Việt Nam với bên ngoài, xem: Trần Quốc Vượng, “Việt Nam: 100 năm giao thoa văn hóa Đông-Tây”, Đất Mới, bộ 3, số 3&4, 1991, tr. 32-44.

Về cách ứng xử của Việt Nam với Liên Xô và Trung Quốc nhằm phục vụ mục tiêu đại chiến lược của mình (thời kỳ 1956-1969), xem: W. R. Smyser, The Independent Vietnamese: Vietnamese Communism Between Russia and China, 1956-1969. Athens, Ohio: Ohio University Center for International Studies, Southeast Asia Program, 1980.

Về cuộc xung đột Đông Dương lần 3 và quan hệ Việt-Trung trong ngũ giác Việt Nam-Trung Quốc-Mỹ-Liên Xô-Campuchia thời kỳ sau 1975, xem: Nayan Chanda, Brother Enemy. The War after the War: The History of Indochina since the Fall of Saigon. San Diego: Harcourt Brace Jovanovich, 1986.

Về các thế giới quan làm nền cho chính sách đối ngoại của Việt Nam (Hà Nội) trong thời hiện đại, xem: Eero Palmujoki, Vietnam and the World: Marxist-Leninist Doctrine and the Changes in International Relations, 1975-93, London: Macmillan Press, 1997; Gareth Porter, “The Transformation of Vietnam’s World-view: From Two Camps to Interdependence,” Contemporary Southeast Asia, bộ 12, số 1, 6/1990, tr. 1-19; Võ Văn Kiệt, “Thư gửi Bộ Chính trị”, 9/8/1995, in lại trong Diễn Đàn, số 48, 1/1996, tr. 16-23; Nguyễn Cơ Thạch, Thế giới trong 50 năm qua (1945-1995) và thế giới trong 25 năm tới (1995-2020). Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia, 1998.

Về chặng đường ngoại giao Việt Nam 1975-1991, quan điểm của lãnh đạo và cách xử lý mối quan hệ với Trung Quốc cũng như vấn đề Campuchia, giai đoạn bản lề 1987-91, xem: Trần Quang Cơ, Hồi ức và Suy nghĩ, mimeo, gộp hai bản 2001/2003 (hai chương 13 và 14 về cuộc gặp cấp cao Thành Đô 1990 in lại trên Diễn Đàn, số 134, tháng 11/2003, chương 1 về quan hệ Việt-Mỹ và thời cơ bỏ lỡ năm 1977 trích đăng trong Diễn Đàn, số 136, tháng 1/2004); cũng xem thêm về quan hệ Việt-Trung, quá trình bình thường hóa: Carlyle Thayer, “Sino-Vietnamese Relations: The Interplay of Ideology and National Interest”, Asian Survey, 6/1994.
0