kimluc
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử. Hiển thị tất cả bài đăng

Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không


0

Chiến tranh Việt Nam - Tài liệu tổng hợp

Chiến tranh Việt Nam (1955–1975) là giai đoạn thứ hai và là giai đoạn khốc liệt nhất của Chiến tranh trên chiến trường Đông Dương (1945–1979), bắt đầu ngày 1 tháng 11 năm 1955 khi Phái bộ Cố vấn và Viện trợ Quân sự Hoa Kỳ (MAAG) được thành lập ở miền Nam Việt Nam và kết thúc ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi Tổng thống Dương Văn Minh của Việt Nam Cộng hòa đầu hàng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.

1. Chiến tranh Việt Nam (tài liệu PDF, Wikipedia)

2. Phim tài liệu của Mỹ: The Vietnam War (Vietsub)

3. Phim tài liệu: Việt Nam - Cuộc chiến 10.000 ngày

4. Phim tài liệu Việt Nam: Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không
0

Thụy Điển: Một đế quốc hùng mạnh, chỉ vì xâm lược Nga mà mất tất cả

400 năm trước, quốc gia Bắc Âu từng là cường quốc quân sự, thậm chí đạt đến tầm của một đế quốc, nhưng một sai lầm khi xâm lược Nga đã khiến tất cả tan thành mây khói.


Trận Polatava giữa Nga và Thụy Điển năm 1709.


Nhắc tới Thụy Điển ngày nay, ai cũng nghĩ tới đồ nội thất IKEA, những vụ án giết người thế kỷ hay chính sách đối ngoại mang thiên hướng trung lập.

Ít người biết rằng cách đây khoảng 400 năm, Thụy Điển nổi lên là đế chế hùng mạnh, một cường quốc quân sự. Điều mà cho đến bây giờ, Thụy Điển không bao giờ có thể lập lại được.

Từng nổi danh là đế chế hùng mạnh

Thụy Điển nổi lên như một cường quốc châu Âu dưới thời Axel Oxenstierna và vua Gustavus Adolphus – người nổi tiếng là một chỉ huy quân sự đại tài. Thụy Điển ban đầu là một quốc gia nghèo, không có nguồn tài nguyên rộng lớn như Pháp hay Nga ở thời kỳ đó.

Vậy nên Gustavus Adolphus đã phải đề ra các hình thức chiến tranh linh hoạt hơn. Trong thời đại mà quân đội, bao gồm cả nông dân và lính đánh thuê được trả lương nghèo nàn, Adolphus vẫn xây dựng được một đội quân thường trực chuyên nghiệp, được đào tạo bài bản.

Quân đội Thụy Điển chủ trương lấy chất lượng bù số lượng, đội hình thay đổi linh hoạt trước những kẻ thù đông đảo nhưng chậm chạp hơn. Giai đoạn thế kỷ 17 cũng là lúc các đội quân trên thế giới dần thay đổi từ kiếm và giáo sang súng và pháo.

Adolphus tỏ ra thức thời khi cho sản xuất hàng loạt vũ khí dùng thuốc súng. Hầu hết các loại pháo trong thời đại này đều có ít khả năng cơ động chiến trường, nhưng nhà vua Thụy Điển đã trang bị cho các đơn vị bộ binh của mình những khẩu pháo cơ động, có thể hỗ trợ binh sĩ trong suốt trận đánh.

Trong cuộc chiến tranh 30 năm (1618-1648), quân đội Thụy Điển tiến sâu xuống phía nam, chạm đến cả Prague, thủ đô CH Czech ngày nay và Vienna, thủ đô Áo ở miền trung châu Âu.

Một trong những trận đánh nổi tiếng nhất phải kể đến trận Breitenfeld vào tháng 9/1631. 23.000 quân Thụy Điển và 18.000 quân Saxon gần như quét sạch toàn bộ đội quân Đế quốc La Mã Thần thánh với 35.000 người. Ở trận đánh đó, Adolphus chỉ mất 5.500 quân.

Trong trận Lutzen năm 1632, Adolphus đánh bại đội quân Đế quốc La Mã Thần thánh, nhưng phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Adolphus sơ hở khi đích thân dẫn quân chiến đấu, bị trúng nhiều phát đạn và cuối cùng là một nhát đâm kết liễu mạng sống. Vị vua vĩ đại nhất của Thụy Điển qua đời khi mới 37 tuổi.

Đóng góp không nhỏ của Adolphus ở thời kỳ đầu giúp Thụy Điển giành chiến thắng cuối cùng vào năm 1648, kiểm soát vùng đất rộng lớn bao gồm cả lãnh thổ Đông Đức và Ba Lan, trở thành cường quốc quân sự ở châu Âu và khu vực Baltic.

Tất cả sụp đổ ở Nga

Để có thể duy trì sự cường thịnh của đế chế, năm 1708, vua Thụy Điển khi đó là Charles XII quyết định mở chiến dịch xâm lược Nga. Chiến dịch kết thúc tạo bước ngoặt lớn cho đế chế Thụy Điển, nhưng là theo chiều ngược lại.

Chiến dịch xâm lược Nga nằm trong cuộc chiến phương Bắc kéo dài từ năm 1700-1721, trong đó Thụy Điển đối đầu với một liên minh do đế quốc Nga đứng đầu.

Giống như cha ông, vua Charles XII nổi tiếng là người cai trị thông minh, hoạt bát, được mệnh danh là “Sư tử phương Bắc”. Nhưng đế quốc Nga khi đó cũng không kém cạnh, do Peter Đại đế nắm quyền. Peter Đại đế là người đưa nước Nga sang một trang mới, từ quốc gia rộng lớn nhưng nghèo khó, trở thành cường quốc châu Âu.

Sự nổi lên của Nga đe dọa lãnh thổ do Thụy Điển kiểm soát ở Đông Âu, đặc biệt là khu vực Baltic. Charles XII chủ động tiến quân trước, tiến vào lãnh thổ Nga năm 1708, bắt đầu chiến dịch chinh phạt lớn nhất trong cuộc đời.

40.000 quân Thụy Điển tham gia chiến dịch tuy không phải là quân số lớn, nhưng đều là những binh sĩ tinh nhuệ. Trong trận đánh ở nơi là Estonia ngày nay, 12.000 quân Thụy Điển đánh tan 37.000 quân Nga.

Nga hoàng Peter Đại đế ra lệnh tàn phá một vùng rộng lớn để Quân đội Thụy Điển không thể thu hoạch được gì bất kể họ tiến quân theo hướng nào. Dọc mọi con đường dẫn từ doanh trại Thụy Điển hướng về bắc, đông hoặc tây, quân Nga tạo một vành đai vườn không nhà trống dài gần 200km.

Charles XII tiến quân đến đâu, quân Nga lại dùng chiến thuật du kích, khiến quân Thụy Điển dần dần bị cô lập, không còn nhận được nhu yếu phẩm tiếp tế.

Năm 1709, đến thời tiết cũng quay lưng với vua Thụy Điển, đó là khi châu Âu trải qua đợt rét nhất trong 500 năm. Vùng lãnh thổ rộng lớn của Nga vô hình trung biến thành mồ chôn kẻ thù vì giá rét.

Hơn 2.000 binh sĩ Thụy Điển chết rét chỉ trong một đêm. Đến tháng 6/1709, đội quân chinh phạt của Thụy Điển chỉ còn lại 20.000 người và 34 khẩu pháo.

Trong trận quyết định ở nơi ngày nay là Ukraina, Peter Đại đế đem tới 80.000 quân ra nghênh chiến. Ưu thế quá lớn về số lượng và cả tinh thần chiến đấu đã tạo cơ hội để Peter Đại đế đập tan quân Thụy Điển, gây tổn thất tới 19.000 người.

Nga cũng tổn thất nặng nề, nhưng nhờ ưu thế sân nhà nên có thể dễ dàng củng cố lực lượng, còn Charles XII thì không. Kết cục là Charles XII rời Nga với 543 người còn lại.

Thụy Điển cũng mất luôn lãnh thổ ở Baltic và không bao giờ lấy lại được sức mạnh như xưa. Các nhà sử học sau này đều đồng ý rằng, trận Poltava ở Ukraina năm 1709 đã khiến cho “kỷ nguyên đế quốc” của Thụy Điển kết thúc một cách đột ngột. Những năm cuối đời Charles XII điên cuồng chống Nga và chết ở tuổi 36 trong một chiến dịch vào năm 1718.

3 năm sau, vua mới của Thụy Điển buộc phải ký hòa ước Nystad, đồng ý công nhận các vùng lãnh thổ chiếm được trước đây, nay thuộc về Nga, bao gồm vùng Baltic và phía nam Phần Lan.

Theo DÂN VIỆT
0

Trần Ích Tắc là siêu gián điệp nhà Trần cài cắm vào Trung Hoa?

Đối với kẻ phản bội quá rõ ràng như Trần Ích Tắc thì tại sao không xoá tên khỏi tông thất mà vẫn để là Ả Trần? Nhà Trần vốn rất mạnh tay với kẻ thực sự phản bội như Trần Di Ái, tại sao có thể để Ích Tắc yên ổn sống bên Trung Quốc nhiều năm?

0

Vụ buôn lậu vô tiền khoáng hậu của phu nhân Tổng thống Thiệu

Một vụ buôn lậu với nhiều loại mặt hàng xa xỉ trên thị trường lúc đó: Rượu, thuốc lá, đồng hồ… với lượng lớn được di chuyển từ biển Gò Công về Sài Gòn.



Điều đáng nói là vụ buôn lậu này do một nhân vật có quyền lực tối cao trong chế độ Sài Gòn cũ, chính vì thế, hoạt động buôn lậu cũng có xe còi hụ dẫn đường và chuyên chở trên những chiếc xe quân vụ. Nếu không bị phát hiện thì đường dây này sẽ mãi chìm váo bóng tối. Vụ việc gây chấn động Sài Gòn và cả thế giới quan tâm tới chính trường Sài Gòn lúc đó, khi Mỹ đứng sau giật dây chính quyền Sài Gòn. Sau khi vụ việc bị phát hiện, cách hành xử của Sài Gòn cũng hết sức “đặc biệt” để bưng bít vụ buôn lậu vô tiền khoáng hậu này.

Một con đường buôn lậu trên biển, sau đó chuyển về Sài Gòn bằng đường bộ và để qua mắt cú vọ là báo chí và dân đen thời bấy giờ, bọn buôn lậu đã sử dụng luôn những chiếc quân xa, có còi hụ dẫn đường. Vụ việc bất ngờ bị phát giác khi hai viên sỹ quan lo ngại về đoàn quân xa “phóng nhanh vượt ẩu”, trong khi Phủ đầu rồng lại có lệnh kiểm soát nghiêm ngặt vì nghi ngại đảo chính.

Sự thật phía sau những đoàn xe quân sự

Trước khi đi vào chi tiết vụ buôn lậu từng chấn động Sài Gòn này, chúng tôi muốn nói một chút về Nguyễn Văn Thiệu và đệ nhất phu nhân Nguyễn Thị Mai Anh. Bởi chính sự hậu thuẫn và quyền lực của chính quyền Thiệu mà bà Mai Anh có đủ quyền để thực hiện những phi vụ này trót lọt.

Ngay từ giữa những năm 60 thế kỷ trước, Mỹ đã nhận thấy Nguyễn Văn Thiệu là một trong những quân bài mới trong ván bài đang dang dở ở miền Nam Việt Nam. Chính vì thế, Mỹ đã hỗ trợ rất nhiều để Thiệu và đảng Dân chủ do ông ta lập ra chiếm được thế thượng phong trên chính trường Sài Gòn.

Và sự thực đến ngày 4/9/1967, trong cuộc bầu cử giả hiệu, Thiệu đã liên danh với Nguyễn Cao Kỳ dù chỉ giành được 34,8% số phiếu bầu của các cử tri, nhưng vẫn trở thành tổng thống của cái gọi là nền đệ nhị cộng hòa.

Thiệu đã hậu thuẫn rất mạnh mẽ cho vợ mình cùng các đàn em mua bán hàng lậu, thu về những khoản lợi nhuận kếch xù. Sau này, khi vụ việc tại Long An được phát giác và cách hành xử của Thiệu sau đó, người ta mới té ngửa về sự hậu thuẫn đó như thế nào.

Đệ nhất phu nhân có tên thật là Nguyễn Thị Mai Anh – con gái thứ bảy trong một gia đình có tới 12 anh em. Gia đình bà có nghề y truyền thống nổi tiếng ở TP. Mỹ Tho, tỉnh Định Tường (Tiền Giang ngày nay). Đây cũng là cơ sở cho bà Mai Anh thực hiện việc buôn bán của mình được thuận lợi. Là người theo đạo công giáo toàn tòng, nhưng bà Mai Anh ảnh hưởng khá lớn từ nếp gia phong của một gia đình phong kiến. Mỹ Tho thời ấy cũng không xa Sài Gòn, đặc biệt có tuyến xe lửa Sài Gòn – Mỹ Tho và ngược lại hết sức thuận lợi.

Ông Nguyễn Khánh Linh, một người nghiên cứu về Sài Gòn xưa cho biết, khi đương là đệ nhất phu nhân, bà Mai Anh được nhiều người nhận xét là có khuôn mặt phúc hậu, thường quan tâm đến người khác. Đồng thời, bà cũng lập ra nhiều quỹ, trung tâm bảo trợ xã hội… Sau này, người ta mới biết được rằng, những quỹ, trung tâm đó là một trong những tấm bình phong cho các hoạt động buôn lậu của bà và đàn em.

Đặc biệt, sau khi vụ Long An bị phát giác vào năm 1974, trước khi miền Nam giải phóng, thống nhất đất nước 1 năm. Vào những năm trước giải phóng, tình hình miền Nam, đặc biệt là Sài Gòn hết sức ngổn ngang. Chính vì vậy, nạn buôn lậu, đặc biệt là bạch phiến, cướp giật… diễn ra như cơm bữa. Thi thoảng nhà chức trách lại phát hiện hay tóm cổ vài ba tên đầu sỏ cho vào nhà đá. Tuy nhiên, đó là những tên tác chiến độc lập, không có ô dù che đỡ, còn khó khăn chính là nạn buôn lậu do những người cầm quyền thực hiện. Đến nay, những nghi án về đường dây buôn lậu “an toàn nhất thế giới” do Ngô Đình Nhu cầm đầu vẫn còn được bàn tán nhiều. Bên cạnh đó, vụ của bà Mai Anh là rõ ràng hơn cả.

Ông Trần Nguyễn Hoa, năm nay đã ngoài 70 tuổi, ngụ tại Chợ Lớn, TP.HCM cho biết, thời ấy, ở miền Nam không có tình trạng buôn lậu qua biên giới Tây Nam. Con đường nhập hàng lậu chủ yếu từ tàu biển đậu ở ngoài khơi dùng các thuyền đưa vào đất liền. Bà Mai Anh cũng đã biến cung đường này thành một con đường “tơ lụa” hết sức chặt chẽ. Theo đó, từ biển Gò Công, tỉnh Định Tường (Tiền Giang ngày nay) khi các tàu lớn neo đậu tại đây, sẽ có những chiếc thuyền nhỏ của Định Tường nối đuôi nhau ra nhận hàng chở vào Mỹ Tho. Từ Mỹ Tho, theo đường 4 (QL1A ngày nay) hàng được đưa về Chợ Lớn trên những chiếc GMC (xe nhà binh) có còi hụ và quân cảnh dẫn đường. Chính vì thế, những chiếc chiến xa này cứ ào ào chạy bạt mạng, dân thường không dám đụng tới. Cảnh này cũng thường thấy trên đường, dân thường chỉ biết nhường đường. Với cách làm này, việc buôn lậu an toàn đến mức tuyệt đối, không ai nghĩ rằng, đoàn xe quân sự lại đi buôn hàng lậu.

Cuộc truy đuổi chặn bắt như trong phim

Theo ông Trần Hoàng, chủ bút một tờ báo trước giải phóng, đoàn xe gồm hàng chục chiếc quân xa thuộc Quân vận vùng 3, xe tới đâu là còi inh ỏi để báo cho các trạm biết rằng, đây là đoàn xe ưu tiên, không được chặn, xét. Nếu trường hợp là xe chở vũ khí, đạn dược, nhiên liệu quan trọng thì còn có cả phi cơ L19 (thời ấy hay gọi là máy bay bà già) bay rề rề trên không để thám thính và phòng ngừa phục kích. Khoảng 15h ngày 31/1/1974, có một đoàn xe GMC phủ bạt, mở đèn chạy từ TP. Mỹ Tho, tỉnh Định Tường (Tiền Giang ngày nay) theo đường 4 về Sài Gòn. Dẫn đầu là chiếc Jeep của Quân cảnh thuộc Biệt khu Thủ đô có treo cờ 3 que. Khi đoàn quân xa do đại úy Nhiều, Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn Quân cảnh thuộc Biệt khu Thủ đô dẫn đầu tới trạm kiểm soát hỗn hợp gồm quân cảnh và cảnh sát ở Long An thì có chuyện xảy ra.

Mặt trời cũng đã xế bóng, tuy nhiên nhìn vẫn còn tỏ mặt người, lúc này, trong trạm kiểm soát của Quân cảnh Long An chỉ có 2 viên hạ sỹ. Ông Hoàng cho biết thêm, hai tên này không lạ gì đại úy Nhiều và thấy rõ mặt đại úy Nhiều ngồi trên xe. Theo lời 2 tên này, có vẻ như đại úy Nhiều đã xỉn. Về sau, khi đứng trước Ủy ban điều tra, hai viên sỹ quan này khai rằng, ngay lúc đó họ đã thi hành phận sự, thổi còi chặn đoàn xe lại nhưng đoàn xe không dừng. Chính vì đoàn quân xa cứ lao như điên cho nên họ không khỏi lo lắng cho phận sự và trách nhiệm của mình. Dù biết rằng, đoàn quân xa có quân cảnh mở đường hợp lệ, kể cả việc đại úy Nhiều chễm chệ trên xe nhưng đoàn tùy tùng lại hết sức nhốn nháo, có cả quân nhân và dân sự. Nhiều người ăn mặc lôi thôi, nhếch nhác, trong khi đó, tốc độ của các quân xa là quá nhanh khi qua trạm gác. Lúc này, họ cũng nhớ tới nghiêm lệnh của Phủ Tổng thống là phải kiểm soát chặt chẽ kể cả những đoàn quân xa khả nghi tiến vào đô thành. Đây là biện pháp nhằm phòng ngừa âm mưu đảo chính của Phủ đầu rồng.

Trong khi hai viên sỹ quan đang phân vân, thì đoàn quân xa đã đi mất hút tầm nhìn của họ. Lập tức, họ gọi cho chỉ huy trưởng trực tiếp là trung úy Thọ. Nghe tin giật mình, Thọ cũng tá hỏa, chưa biết đối phó thế nào cho ổn. Không có cách nào khác, Thọ gọi báo khẩn lên thượng cấp là đại tá Lê Văn Năm, tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Tiểu khu Long An để xin chỉ thị. Không khỏi lo ngại, đặc biệt là chiếc ghế mình đang ngồi, nếu có chuyện gì xảy ra, thế nên, đại tá Năm cũng cấp tốc điện cho thuộc cấp là quận trưởng Bến Lức để chặn đoàn quân xa. Tuy nhiên, ông này cho biết, đoàn quân xa đã vượt qua trạm, lúc này mối lo sợ càng lớn hơn làm cho đại tá Năm bàng hoàng lo lắng. Đại tá Năm lập tức gọi chọ quận trưởng Gò Đen, chốt chặn cuối cùng vào Sài Gòn, bằng mọi giá phải chặn cho được đoàn quân xa này.

Lúc này, được biết, đoàn quân xa đang di chuyển đến đoạn giữa Bến Lức và Gò Đen, được lệnh khẩn của cấp trên, quận trưởng Gò Đen ngay lập tức chỉ thị cho các binh sỹ và các lực lượng nhân dân tự vệ trong vùng đem các chướng ngại vật ra đặt chặn ngang đường. Đồng thời, còn cho lính tráng đem dây thép, kẽm gai giăng kín cả lối đi. Dân chúng trong khu gia binh gần đó, biết tin cũng hùa vào đem bàn ghế ra chặn đường. Cảnh tượng diễn ra như phim hành động.

Vén màn bí mật

Ông Nguyễn Khánh Linh, một nhà nghiên cứu về Sài Gòn xưa cho biết, sau khi dựng, giăng chướng ngại vật, đoàn xe do đại úy Nhiều trờ tới và bắt buộc phải dừng lại. Tuy nhiên, tên quận trưởng Gò Đen cũng không dám xét hỏi, chỉ biết gọi cho đại tá Lê Văn Năm, tỉnh trưởng tỉnh Long An xin chỉ thị. Thế là, mặc dù trời đang phủ bóng đêm nhưng đại tá Năm cùng đoàn xe hộ tống cũng phải cấp tốc lên đường đến Gò Đen để làm rõ vụ việc. Có lẽ vụ việc sẽ êm xuôi, nếu không có sự cố bất ngờ diễn ra trước khi đại tá Năm đến.

Theo đó, trong thời gian chờ đại tá Năm đến để giải quyết thì đoàn quân xa vẫn nằm bất động và được bịt bạt kín mít. Nhưng đám binh lính gác trạm tò mò đã gỡ bạt ra xem. Khi thấy đoàn xe chở toàn rượu, thuốc lá, đồng hồ… hàng hiệu, đám binh lính này hoa cả mắt. Nổi lòng tham, toán lính mở bạt, nhảy lên hôi của lậu. Lúc đầu, chỉ một số tên lính thực hiện trót lọt việc ăn cắp hàng, sau đó tin“ngon ăn” này lọt đến tai đám gia binh, cả đám nháo nhào nhảy vào hôi đồ lậu. Cảnh tượng tranh giành nhau hôi của diễn ra như vụ cướp thực thụ.

Ông Trần Nguyễn Hoa, nay đã ngoài 70 tuổi, ngụ tại Chợ Lớn, TP.HCM cho biết thêm, sau khi kiểm đếm lại, người ta ước tính số hàng này đã mất đi khoảng một nửa. Trong tình huống hoảng loạn và màn đêm buông xuống, đám mặc thường phục cũng nhảy khỏi xe quân xa và mất dạng trong bóng đêm. Cảnh hỗn loạn chỉ chấm dứt khi đại tá Năm cùng đoàn tùy tùng đến nơi.

Lúc đó, vào khoảng 21h. Dù vậy, sau khi hỏi chuyện, đại tá Năm cũng không biết xử trí như thế nào cho phù hợp. Buộc lòng, đại tá Năm phải gọi khẩn báo cho trung tướng Phạm Quốc Thuần, Tư lệnh Quân đoàn 3. Trong lúc nói chuyện qua điện thoại, tướng Thuần cũng không dám ban hành một chỉ thị nào cho đại tá Năm để giải quyết vụ việc. Thay vào đó, tướng Thuần cho biết sẽ báo cáo vụ việc lên Thủ tướng Chính phủ và Văn phòng Tổng thống để xin ý kiến. Ngay sau đó, Thủ tướng Trần Thiện Khiêm và vợ chồng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã biết chuyện làm ăn đổ bể, dù đã tính đến cả phương án tối ưu.

Theo ông Trần Hoàng một chủ bút thời đó thì mỗi dịp lễ tết, Phủ đầu rồng lại đồng thời ban hành những chỉ thị đặc biệt và lưu ý những đơn vị chỉ huy quân sự địa phương từ trên xuống dưới phải canh chừng cẩn mật, nếu có gì khả nghi ở địa phương nào thì phải cấp tốc báo cáo lên cấp trên để kịp thời xử lý. Ai lơ là nhiệm vụ thì sẽ xử lý nghiêm theo quân lệnh. Vì thế để cho chắc ăn, đường dây buôn lậu này đã sử dụng thêm xe quân cảnh, có còi hụ dẫn đường. Điều đó đảm bảo chắc chắn rằng, đây là đoàn xe công vụ. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc không có trạm nào được xét hỏi, dừng xe. Với đường dây của Nguyễn Thị Mai Anh thì đặc biệt có đoàn xe quân cảnh trực thuộc Tiểu đoàn 6 Quân cảnh, Biệt khu Thủ Đô, dưới quyền chỉ huy của trung tá Nguyễn Văn Phần (còn gọi là Văn Phan).

Nguồn gốc hàng lậu?

Ông Trần Hoàng cho biết, vụ việc buôn lậu đổ bể giữa đường, báo chí Sài Gòn thời bấy giờ một phen được hả hê. Bởi từ trước cho tới khi vụ việc bị phát giác, cánh báo chí luôn bị bưng bít thông tin, đặc biệt những chuyện làm ăn của các phu nhân của tổng thống, thủ tướng… Ông Trần Hoàng cho biết thêm, vụ buôn lậu được phát hiện tại Long An mà thời đó, cánh báo chí chúng tôi đặt tên là “vụ còi hụ Long An” có quy mô rất lớn, có sự tham gia của nhiều đơn vị, thuộc nhiều binh chủng khác nhau.

Đầu tiên, báo chí quan tâm nhiều nhất là xem ai đứng đằng sau vụ việc, rồi đến nguồn hàng này từ đâu chuyển về Việt Nam với lượng lớn như trên. Báo chí cũng điều tra ra được, hàng vào Việt Nam bằng đường thủy và thường vào một khung giờ quy định. Theo đó, con tàu Panama vào biển Việt Nam lúc trời tối, đồng thời, ở đây đã có sẵn một số lực lượng Giang Đoàn (lính thủy) của TP. Mỹ Tho chờ sẵn và chịu trách nhiệm chuyển vào đất liền. Những kiện hàng này được vận chuyển về một kho chứa tại Chợ Gạo, tỉnh Định Tường (Tiền Giang ngày nay). Công tác bốc dỡ hàng hóa phải kết thúc vào khoảng trưa hôm sau. Còn trong quá trình vận chuyển về Chợ Lớn phải “me” lúc trời tối đến Phú Lâm (cửa ngõ vào trung tâm Sài Gòn) là vừa. Như vậy sẽ tránh được sự dòm ngó, đặc biệt là cánh báo chí.

Tại khu vực kho hàng ở Chợ Gạo, người ta thường thấy nhiều chiếc GMC thuộc Quân vận vùng 3 “cắm”. Số quân xa này được đặt dưới quyền chỉ huy của đại tá Trần Quốc Khang. Điều đáng nói ở đây là địa điểm chứa hàng lậu là Chợ Gạo, TP.Mỹ Tho của tỉnh Định Tường (Tiền Giang ngày nay) thuộc vùng 4 chiến thuật nhưng đoàn quân xa chuyên chở hàng từ Chợ Gạo về Chợ Lớn lại là những chiếc quân xa thuộc Quân vận khu 3. Ngay cả quân cảnh mở đường cho đoàn quân xa chở hàng lậu cũng thuộc quân khu 3. Rồi đến địa điểm xuống hàng lậu và đem phân phối tại thị trường cũng thuộc lãnh thổ quân khu 3, do Biệt khu Thủ Đô đảm trách. Nhiều người cho rằng, đã có sự thỏa hiệp của những ông bà trùm để không xảy ra những tranh chấp.

Cũng theo ông Linh, lúc đó, dư luận cũng quan tâm đến chuyện những “trùm” ở Phủ đầu rồng buôn bán những mặt hàng gì? Khi được công bố, nhiều người mới té ngửa vì có quá nhiều mặt hàng xa xỉ phẩm, đắt tiền, đặc biệt là để bán dịp Giáng sinh và Tết: Các loại rượu quý: Cognac, Martel, Whisky, Champagne… Các loại thuốc lá thơm: Caraven “A”, 555, Marlboro… Các loại quần áo, hàng vải, tơ lụa; giày vớ của Pháp, Ý… Các loại đồ chơi điện tử của Nhật; Đồng hồ hiệu: Omega, Longine, Rolex, Senko, Certina… Các loại bánh kẹo nổi tiếng của Anh, Hà Lan, Đan Mạch… Tổng số hàng này trị giá khoảng hơn nửa tỷ đồng tiền Việt Nam lúc bấy giờ.

Xử cả kẻ buôn lậu, lẫn người bắt buôn lậu

Chiếu theo những quy định, luật lệ khi đó thì sẽ có một phiên tòa để làm rõ công – tội rành mạch. Tuy nhiên, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lại được tham mưu và “ấn” cho mỗi người một bản án cụ thể, tùy theo mức độ tham gia vụ việc. Thậm chí những người có công ngăn chặn vụ buôn lậu cũng không hề được thưởng hay nêu công trạng, trái lại còn bị lãnh những bản án nặng. Giới báochí thời ấy gọi đó là một phiên tòa đặc biệt.

Tổng thống Thiệu không có cách nào để giấu mặt, đành phải xuất đầu lộ diện và trực tiếp giải quyết vấn đề. Theo lẽ thường, vào thời điểm ấy, nếu những sự vụ tương tự như thế diễn ra thì nó sẽ thuộc thẩm quyền và trách nhiệm của viên Tổng Giám đốc Quan thuế hoặc cao lắm là tới Tổng trưởng Tài chính hay Kinh tế, chứ chưa đến mức phải tới tay Phủ Tổng thống. Bên cạnh đó, một chi tiết cũng đáng chú ý là khi vụ án xảy ra, nhiều tờ báo hả hê và nhảy vào loannhưng đã bị… tuýt còi ngay lập tức.

Ông Nguyễn Khánh Linh, một người nghiên cứu về Sài Gòn xưa cũng được nghe một số nhân chứng trong vụ việc sau này kể lại, để giải quyết vụ việc, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã cho thành lập một Ủy ban điều tra và thanh mãi (giải quyết số hàng còn lại sau khi bị cướp) gồm: Tổng Giám đốc Quan thuế, Tổng Giám đốc Cảnh sát Quốc gia cùng một vài tay chân thân tín khác. Số hàng còn lại được đem ra đấu giá, số tiền thu được đem vào cứu trợ cho các gia đình cô nhi quả phụ tử sỹ.

Cũng có thông tin cho rằng, sau khi vụ việc đổ bể, do đám con trẻ làm hư chuyện, báo chí lên tiếng và dư luận trong Bộ Tổng tham mưu ồn ào về vụ buôn lậu có còi hụ dẫn đường, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đành phải đích thân ra lệnh cho thành lập một Ủy ban điều tra cấp Trung ương, gồm Bộ Quốc phòng, Tổng Thanh tra, Quân cảnh và An ninh Quân đội do Đổng lý Bộ Quốc phòng Tôn Thất Chước làm Chủ tịch Ủy ban.

Thế là hàng loạt người dính líu vào vụ án vô tiền khoáng hậu này đều bị triệu tập điều tra. Đó là đại úy Nhiều, Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 6 Quân cảnh của Biệt Khu Thủ Đô; đại úy Thế, Tiểu đoàn 4 Quân cảnh, Trưởng đồn Quân cảnh Mỹ Tho (đại úy Thế là con rể đại tá Luông, Giám đốc Cảnh sát Quân khu 3); đại úy Quới, trưởng đoàn quân xa thuộc Quân vận vùng 3… Rồi trưởng ty cảnh sát Chợ Gạo; thiếu tá chỉ huy trưởng Giang Đoàn ở Mỹ Tho… Đặc biệt, đáng chú ý nhất là những người có công ngăn chặn và bắt chuyến hàng lậu được dẫn bằng xe quân cảnh có còi hụ như trung úy Thọ, trưởng đồn quân cảnh Long An rồi hai viên sỹ quan quân cảnh gác trạm kiểm soát Long An cũng bị bắt. Đây là những người có công trong việc báo cáo vụ việc lên thượng cấp để tỉnh trưởng Lê Văn Năm cho chặn đoàn xe bằng bất cứ giá nào.

Theo ông Linh, nếu chiếu theo Luật Thuế quan thời đó thì hai viên sỹ quan quân cảnh gác trạm kiểm soát Long An, trung úy Thọ, thiếu tá quận trưởng Gò Đen và đại tá Lê Văn Năm xứng đáng được thưởng vì là những người có công khám phá và chặn được đoàn quân xa chở hàng lậu. Nhưng ngược lại, tất cả đều bị bắt nhốt và chờ hình phạt vì đã vô tình để thất thoát một số lượng lớn tài sản quốc gia. Theo đó, một mặt Tổng thống Thiệu sai thuộc cấp hứa ngầm sẽ giảm án cho những người bị tống giam sau một thời gian ngồi bóc lịch tượng trưng. Đồng thời, Tổng thống Thiệu cũng ban hành một sắc lệnh quy định trách nhiệm trực tiếp cho các tướng lãnh chỉ huy cao cấp. Giới phân tích chính trị lúc ấy cho rằng, cũng từ đây, cơn ác mộng bị đảo chính cứ lởn vởn trong đầu của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho tới ngày ông qua đời.

Vụ mất tích và cái chết bí hiểm

Và kết quả của vụ xét xử này cũng làm nhiều người bất ngờ. Điển hình đại uý Nhiều, Tiểu đoàn phó Tiểu Đoàn 6 Quân cảnh thuộc Biệt Khu Thủ Đô; đại uý Thế, trưởng đồn Quân Cảnh Mỹ Tho; đại uý Quới, chỉ huy đoàn quân xa; thiếu tá chỉ huy Giang Đoàn Mỹ Tho… mỗi người lãnh 6 năm cấm cố, bị tước đoạt binh quyền và lưu đày ra ngoài Côn Đảo. Có tin cho rằng, đại úy Nhiều bị án khủng 20 năm tù và đày ra khổ sai ở Côn Đảo.

Còn đại tá Lê Văn Năm, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Long An bị giáng cấp xuống đại uý và bị thuyên chuyển ra Sư Đoàn 21, đóng ở Chương Thiện, Gia Rai và phải đi hành quân như một lao công chiến trường. trung uý Thọ, Trưởng đồn Quân cảnh Long An, mặc dù đã có công và rõ ràng không dính líu gì vào vụ buôn lậu, đã bị phạt mấy chục ngày trọng cấm, có ghi vào quân bạ và bị thuyên chuyển đi làm Trưởng đồn Quân cảnh Phước Long. Tương tự, hai viên hạ sĩ quan Quân cảnh, thuộc trạm kiểm soát Long An, đã có công đầu tiên báo cáo về hành tung của đoàn quân xa, đều bị phạt mỗi người mấy chục ngày trọng cấm, có ghi vào hồ sơ và thuyên chuyển lên Pleiku, thuộc Tiểu Đoàn 2 Quân cảnh.

Điều đáng nói là nhiều người sau khi đi thi hành án được một thời gian ngắn thì mất tích hoặc chết không rõ nguyên nhân. Trường hợp được ghi nhận là trong một thời gian, sau khi đi làm Trưởng đồn Quân cảnh Phước Long, trung úy Thọ đã được báo là mất tích không rõ lý do gì. Tương tự như trung úy Thọ, hai viên sỹ quan một thời gian sau khi đi thực hiện nhiệm vụ mới ở Pleiku cũng bị bắn chết không rõ nguyên nhân.

Dư luận cũng lên tiếng về việc không thấy ai đứng đầu tổ chức buôn lậu này đứng ra chịu trách nhiệm. Có điều các mũi búa rìu dư luận đều chĩa vào Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và đệ nhất phu nhân Nguyễn Thị Mai Anh với sự cộng tác mật thiết của vợ chồng tẩu tướng Trần Thiện Khiêm cũng như vợ chồng người chị gái của đệ nhất phu nhân cư ngụ tại Mỹ Tho. Gia đình bên vợ Tổng thống Thiệu đã lấy danh nghĩa Phủ đầu rồng (Phủ Tổng thống) để tổ chức buôn bán. Họ mượn cớ ngày tết sắp đến, ngân sách Quốc gia không đủ để đài thọ quà cáp cho gia đình cô nhi quả phụ tử sỹ trên toàn quốc, nên phải tổ chức kinh tế mạo hiểm với nhóm thương gia người Tàu trong Chợ Lớn và ăn chia theo tỷ lệ 50 – 50. Số tiến ăn chia này sẽ được bổ sung vào quỹ cứu trợ “Cây Mùa Xuân” cho cô nhi quả phụ tử sỹ trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa do các đấng mệnh phụ phu nhân lãnh đạo.

Lưới trời lồng lộng

Ông Trần Hoàng, Chủ bút một tờ báo trước giải phóng nói thêm, dù đã được ngụy trang hết sức cẩn thận nhưng vụ việc cũng chỉ bị phát hiện một cách hết sức bất ngờ, ngoài ý muốn của Phủ đầu rồng. Bởi, kể từ sau khi chính quyền cách mạng Việt Nam thực hiện Chiến dịch Tổng tiến công Mậu Thân (1968) thì hàng năm, cứ tới dịp lễ tết là chính quyền Thiệu lại nơm nớp lo sợ. Chính vì vậy, Thiệu luôn phải nhắc nhở quân đội chính quy, kể cả địa phương và các đơn vị nhân dân tự vệ… phải đề cao cảnh giác. Đến năm 1972, sau khi chúng ta ký Hiệp định Paris, Mỹ rút quân về nước thì ghế ngồi của Thiệu tại Phủ đầu rồng đã không yên ổn. Lúc đó, theo lời các thầy bói (Thiệu rất tin vào bói toán) thì Thiệu lúc nào cũng nơm nớp lo sợ bị đảo chính. Và Thiệu thừa biết chắc rằng, nếu có biến cố xảy ra thì hắn cũng phải đi chầu Diệm – Nhu sớm. Do vậy, chính quyền của Thiệu cùng với Thủ tướng Khiêm đã thủ thế rất kỹ. Thế nên việc buôn lậu cũng phải có tay chân tín cẩn thực hiện, đặc biệt là các vị trí then chốt trong quân đội. Song chẳng ai học hết chữ ngờ.

Phân chia nhiều lĩnh vực buôn lậu

Theo nhiều chuyên gia nghiên cứu lịch sử, sau khi vụ “Còi hụ Long An” bị phát hiện, dưới thời trị vì của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm, Cao Văn Viên và các tay chân thân tín đã xuất hiện nhiều đường dây buôn lậu độc quyền. Ngoài đường dây của đệ nhất phu nhân Nguyễn Thị Mai Anh còn có đường dây buôn lậu Sài Gòn – Vũng Tàu thuộc thẩm quyền của vợ nhỏ Thiệu là bà Cryrnos, làm chủ khách sạn ở Vũng Tàu và vợ chồng Đặng Văn Quang. Còn việc buôn bán các loại giấy phép xuất nhập cảng và hối đoái, chuyển ngân là của vợ chồng Trần Thiện Khiêm với người anh trai của bà Khiêm là Hai RI. Đây cũng là tập đoàn chuyên khai thác lâm sản, đặc biệt là các loại gỗ quý trái phép.
.
Theo NGƯỜI ĐƯA TIN
0

Vụ buôn lậu vô tiền khoáng hậu của phu nhân Tổng thống Thiệu

Một vụ buôn lậu với nhiều loại mặt hàng xa xỉ trên thị trường lúc đó: Rượu, thuốc lá, đồng hồ… với lượng lớn được di chuyển từ biển Gò Công về Sài Gòn.

0

Giai thoại về cuộc đấu phép giữa Cao Biền và thần Long Đỗ

Thế kỷ 9, Cao Biền được triều Đường cử sang làm Tiết độ sứ ở An Nam. Đây là một viên quan được cho là rất giỏi phong thủy, đã trấn yểm nhiều long mạch của nước ta. Tuy nhiên Cao Biền đã phải chịu thất bại khi gặp linh khí đất Thăng Long.



Thần Long Đỗ là một trong bốn vị thần linh thiêng ở Thăng Long – Hà Nội. Ngày nay, đền thờ thần còn gọi là đền Bạch Mã nằm ở số 76 phố Hàng Buồm, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Đền Bạch Mã cũng chính là một trong Thăng Long Tứ Trấn nổi tiếng ở đất kinh kỳ. Sự tích về thần Long Đỗ gắn chặt với các sự kiện lớn của đất Thăng Long. Bởi thế, ngài còn được coi là Thành hoàng của kinh đô. Một trong những sự tích ly kỳ nhất về thần Long Đỗ được dân gian truyền tụng là việc phá sự trấn yểm của Cao Biền.

Cuối thời Đường, sự phản kháng của nhân dân ta ngày càng tăng lên. Những cuộc khởi nghĩa của Phùng Hưng, Mai Thúc Loan tuy cuối cùng đều bị đàn áp song đã làm lung lay thêm cái nền đô hộ mấy trăm năm của giặc phương Bắc. Trong bối cảnh ấy, Cao Biền được triều Đường cử sang làm tiết độ sứ cai trị dân ta (năm Bính Tuất – 866 theo Đại việt sử ký toàn thư, kỷ thuộc Tùy Đường).

Sử sách và cả truyện dân gian truyền miệng nói khá nhiều về viên Tiết độ sứ này. Xung quanh nhân vật này hiện lên những ánh hào quang lung linh thần thoại. Người ta truyền rằng, sau khi đã yên vị chức Tiết độ sứ ở An Nam, Cao Biền bèn cưỡi chim thần đi khắp nước Việt để xem hết các phúc địa. Hễ thấy chỗ đất nào có “long mạch” (chỗ đất tốt khi táng mồ mả ông bà vào đó thì con cháu sau này phát đế vương) thì dùng tà phép trấn yểm hết để người Việt mãi mãi không vùng lên được. Nào là chuyện vãi hạt đậu thành binh lính, nào là việc trồng cây, đào hào để phá long mạch. Các câu chuyện cổ tích, thần thoại thì luôn luôn hấp dẫn về sự tài phép và luôn được người kể thêu dệt thêm cho nên lại càng lung linh huyền ảo.

Cao Biền tài phép là thế nhưng rồi y cũng phải bó tay chịu thất bại ở ngay trong chính đất Đại La – thủ phủ mà y chọn để cai trị nước ta. Trong sách Việt Điện U Linh có một giai thoại kể rằng: Khi Cao Biền đang cho đắp thành Đại La thì thấy trời đất tối đen lại, một vị thần ngồi trên lưng rồng vàng lượn quanh thành mới đắp một vòng. Y rất là run sợ, vội đem vàng và đồng đúc thành một tượng theo hình dáng vị thần trong mơ rồi dùng bùa để trấn yểm. Đêm đó, Cao Biền nằm mơ thấy vị thần ấy nói rằng: Ta là thần Long Đỗ, tinh anh của khí thiêng sông núi nơi đây việc gì mà phải trấn yểm. Sáng hôm sau, Cao Biền sai người đi xem lại những chỗ đã trấn yểm thì thấy đồng sắt đều tan nát cả. Sau đó, Cao Biền sợ hãi lập đền Long Đỗ thờ thần ở trong thành. Đánh giá về giai thoại này, nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Thuần cho rằng, đó là một biểu hiện phản kháng trong lĩnh vực văn hóa. Nếu như nhà Đường cố tạo cho Cao Biền nhiều tài phép để hù dọa dân ta, thì “vỏ quýt dày có móng tay nhọn”, dân ta cũng có một vị thần không sợ tài phép của Cao Biền.

Gần 200 năm sau, khi Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long (1010) cũng lại có một giai thoại nữa liên quan đến thần Long Đỗ. Khi nhà vua đi thuyền từ Hoa Lư ra đến thành Đại La, thuyền vừa cập bến thì thấy rồng vàng bay lên bèn đổi tên Đại La thành Thăng Long. Việc đầu tiên Thái Tổ quan tâm là xây dựng Thăng Long thành một trung tâm kinh tế, chính trị của cả nước. Triều đình đã xuất nhiều tiền của, huy động nhiều sức dân để đắp thành Thăng Long. Nhưng quái lạ là thành cứ đắp xong thì lại bị sụt lún. Nghe tiếng thần Long Đỗ linh thiêng, nhà vua đến cầu khấn. Sau đấy, vào một buổi sáng từ đền thờ thần Long Đỗ hiện ra một con ngựa trắng đi từ đền ra quanh khu vực thành đang đắp. Ngựa đi một vòng để lại dấu chân rồi trở về đền và biến mất. Nhà vua y dấu chân ấy xây thành thì thành không bị sụt nữa. Từ đấy đền có tên nữa là đền Bạch Mã.

Thực ra đây là một mô típ đã có từ thời cổ. Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ngoại kỷ còn chép chuyện An Dương Vương xây thành Cổ Loa. Khi ấy, thành cứ xây xong lại đổ xuống. Sau thành chỉ đứng vững được khi xây theo dấu chân thần Kim Quy. Nhà chép sử nổi tiếng Ngô Sĩ Liên đã có lời bàn rằng: chuyện rùa vàng có đáng tin không? …. An Dương Vương hưng công đắp thành có phần không dè dặt sức dân, cho nên thần minh nhập vào rùa vàng để răn bảo, thế chẳng phải là làm cho dân oán trách quá mà đến thế ư?

Thần Long Đỗ hay thần linh nào nữa cũng đều ở tâm linh con người mà ra. Đó chẳng qua là sự phản ánh những tâm tư nguyện vọng và cả sự phản kháng của người dân trước những thực tế xã hội. Chính người dân Thăng Long đã gắn bó với thủ đô ngàn năm tuổi này. Và cũng từ thế giới tâm linh của họ mới xuất hiện những vị thần linh luôn có mặt mỗi khi Thăng Long nói riêng và dân tộc nói chung đứng trước những bước ngoặt quyết định.

Theo BẢO TÀNG LỊCH SỬ
0

Giai thoại về cuộc đấu phép giữa Cao Biền và thần Long Đỗ

Thế kỷ 9, Cao Biền được triều Đường cử sang làm Tiết độ sứ ở An Nam. Đây là một viên quan được cho là rất giỏi phong thủy, đã trấn yểm nhiều long mạch của nước ta. Tuy nhiên Cao Biền đã phải chịu thất bại khi gặp linh khí đất Thăng Long.

0

Vùng đất Lưỡng Quảng và mối quan hệ với người Việt cổ

Trong thời kỳ Chiến quốc, vương quốc Việt cũng chao đảo dưới những biến động chính trị, nhưng lộ trình văn hóa của nó vẫn khác xa văn hóa Trung Hoa “chính thống” [Hán] của lưu vực sông Hoàng Hà.

Bài viết đăng tải trên Tạp chí Xưa & Nay số 295, 11/2007 tr. 30-33. Lê Đỗ Huy lược thuật.

Mấy năm qua, tại Diễn đàn Lịch sử Trung Hoa (China History Forum) đã diễn ra một cuộc thảo luận trực tuyến về nguồn gốc của cư dân hiện nay đang sống tại hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây [Lưỡng Quảng] của CHND Trung Hoa. Dựa vào những tranh luận trên diễn đàn này, một hoạt động sôi nổi, lôi cuốn nhiều người ở Trung Hoa lục địa và hải ngoại tham gia, chúng tôi xin lược thuật để bạn đọc tham khảo.

Cuộc thảo luận trực tuyến được thực hiện bằng tiếng Anh, có đôi chỗ chú thích bằng tiếng Hoa, gồm hàng trăm ý kiến dàn trải trên 7 chương, mỗi chương có thể in ra chừng hơn 30 trang giấy khổ A4. Chủ đề của cuộc thảo luận là quan điểm Liên-Bách Việt (Pan-baiyueism), bàn về nguồn gốc chung của người Việt Nam và người nói tiếng Quảng Đông (Cantonese). Các thành viên tham dự diễn đàn này gồm chủ yếu là người Trung Hoa ở phía Nam (nhóm thứ nhất), thường phủ định quan điểm “Liên-Bách Việt”, một số người Việt Nam và Việt gốc Hoa (nhóm thứ hai, ít hơn về số người), được xem là cổ súy cho quan điểm trên, và một số ý kiến trung dung.

Các tranh luận thường khá gay gắt, nhưng các nhóm có vẻ đồng thuận với một số sử liệu, thường trích từ các công trình nghiên cứu phương Tây sau đây [1] :

Vào khoảng đời nhà Chu (1134-770 tCn) và Xuân Thu, tại khu vực phía Nam Trung Hoa giáp với biên giới Trung-Việt ngày nay đã tồn tại những bộ tộc không thuộc Hoa tộc như Bách Việt, Bộc (Pu) [2] …

Tới thời Xuân Thu, người Việt ở khu vực núi Cối Kê (nay là Thiệu Hưng) thuộc Chiết Giang lập ra vương quốc Việt. Nước Việt vào năm 473 tCn đã chinh phục nước Ngô [3] láng giềng, đóng đô ở Tô Châu thuộc Giang Tô. Nhưng rồi Việt bị nước Sở thôn tính năm 306 tCn. Vào thời Xuân Thu, người Đông Việt được xem là cư trú ở vùng nay thuộc phía Đông nước Trung hoa hiện đại, người Dương Việt cư trú ở phía bắc của tỉnh Giang Tô hiện nay. Các bộ tộc Bách Việt khác như Âu Mân sống ở vùng Chiết Giang, Phúc Kiến; Nam Việt sống ở vùng Quảng Đông, Tây Âu ở Quảng Tây, Lạc Việt ở Phúc Kiến… Trong thời kỳ Chiến quốc (480-221 tCn), vương quốc Việt cũng chao đảo dưới những biến động chính trị, giống như các lãnh thổ thuộc Thục và Ba nay thuộc Tứ Xuyên, nhưng lộ trình văn hóa của nó vẫn khác xa văn hóa Trung Hoa “chính thống” [Hán] của lưu vực sông Hoàng Hà.


Bản đồ hành chính các quận phía Đông Bắc nước Nam Việt khoảng thế kỉ 2-3 TCN.

Bắt đầu thời kỳ miền bắc của Dương Tử bị Trung Hoa hóa [Hán hóa] mạnh mẽ. Bức trường thành ngăn các bộ tộc du mục từ phương bắc xuống đã được nước Tần (221-206 tCn) và Yên xây dựng. Khu vực hiện nay thuộc Phúc Kiến lần lượt bị nhà Tần và nhà Hán chinh phạt, nhưng phong kiến Trung Hoa đã không thực sự kiểm soát được vùng đất này. Vào đầu đời Hán (206 tCn – 220), Triệu Đà lập ra vương quốc Nam Việt ở khu vực Quảng Đông, độc lập với triều đình Hán. Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa năm 221 tCn, quân nhà Tần bắt đầu tiến xuống phía nam dọc theo sông Tây Giang tới vùng Quảng Đông hiện nay, và xác lập các quận dọc theo các trục đường chính. Tới năm 112 tCn. Hán Vũ Đế đã chinh phục những vùng phương Nam (Trung Hoa), cùng với vùng nay là miền bắc Việt Nam và cử người Hán cai quản các quận.

Dưới đời Hán, ngoài Nam Việt ở viễn Nam chủ yếu là ở Lưỡng Quảng và Việt Nam, sử sách còn kể về tiểu quốc Mân Việt ở đông bắc tập trung ở vùng sông Mân Giang, nay thuộc Phúc Kiến (Mân là tên cũ của tỉnh Phúc Kiến).

Thời Tam Quốc, Sách Địa lý chuyển luận trong Hán thư chép: “Ở khoảng bảy hay tám ngàn dặm tính từ Giao Chỉ đến Cối Kê (nam Giang Tô hay bắc Chiết Giang), những người Bách Việt có mặt ở mọi nơi, chia thành nhiều thị tộc”.

Hoạt động di cư của người Trung Hoa (Hán) càng tăng trưởng, người Việt càng bị đẩy vào các vùng đất cằn hơn, và vào rừng núi. Không giống như những người du mục Trung Á như tộc Hung Nô hoặc tộc Tiên ti, người Việt chưa từng thực sự đặt ra mối đe dọa nghiêm trọng đối với sự bành trướng hay kiềm tỏa của Trung Hoa (người Hán). Thỉnh thoảng họ dấy lên những cuộc đột kích vào khu định cư của người Hoa, mà các sử gia cổ gọi là “những cuộc nổi loạn”. Người Trung Hoa (Hán) cho rằng người Việt không văn minh, và hay đánh lẫn nhau.

Sự sụp đổ của nhà Hán và giai đoạn chia tách tiếp theo đã đẩy mạnh quá trình Trung Quốc hóa. Các thời kỳ bất ổn và chiến tranh ở miền Bắc Trung Hoa giữa Bắc Triều và Nam Triều, cũng như trong đời Tống đã dẫn tới hoạt động di cư ồ ạt của người Trung Hoa (xuống phương Nam). Hôn nhân dị chủng và giao lưu giữa các nền văn hóa đã dẫn đến sự pha trộn giữa người Trung Hoa (Hán) và không Trung Hoa (không phải Hán) ở miền Nam. Cho đến đời Đường, từ “Việt” đã trở nên một định ngữ chỉ vùng hơn là chỉ một nền văn hóa. Một nhà nước từng nằm ở tỉnh Chiết Giang hiện nay trong thời kỳ Ngũ đại thập quốc chẳng hạn, đã tự xưng là Ngô Việt.

Về thời Bắc thuộc, Diễn đàn dẫn luận án phó [?] tiến sĩ của Jennifer Holmgren “Sự đô hộ của Trung Hoa đối với [Bắc] Việt Nam” (Chinese Colonisation of Northern Vietnam, 1980) có đoạn viết:

Những ghi chép về hoạt động của Trung Hoa ở Bắc Bộ Việt Nam trong 6 thế kỷ đầu thời kỳ thực dân này (Việt Nam gọi là thời Bắc thuộc) cho thấy quá trình Việt Nam hóa đối với các dòng họ Trung hoa. hơn là quá trình Hán hóa đối với người Việt… Sự trêu ngươi như thế cho thấy một số thị tộc Trung Hoa xác lập quyền lợi của dòng họ mình ở Bắc Bộ: định cư dần dần, giúp đỡ mở mang và cuối cùng hoà nhập vào môi trường xã hội kinh tế và chính trị ở Bắc Việt Nam. Kết quả cuối cùng của quá trình này là sự xuất hiện của một tầng lớp thượng lưu Hoa-Việt, quá trình phi thực dân hóa ở vùng viễn nam, và những mưu toan bất thành ở thế kỷ VI để khôi phục nền độc lập, thoát ách đô hộ của phương Bắc. Ví dụ cho quá trình này là sự thăng tiến của Sĩ Nhiếp thời Hậu Hán và những nỗ lực giữ nền độc lập của người nhà ông này sau khi ông qua đời.

Từ cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng thế kỷ I đến cuộc nổi dậy của Lý Bôn thế kỷ VI, sử sách của Trung Hoa cho thấy biểu hiện của một sự phụ thuộc về chính trị trên nền nửa độc lập với Bắc triều. Theo dòng thời gian, những thời kỳ có đặc tính bán tự trị ngày càng tăng lên. Xu thế này làm nền cho cuộc nổi dậy của nhà [Tiền] Lý ở giữa thế kỷ VI và cuối cùng là sự phân liệt hoàn toàn khỏi Trung Hoa vào thế kỷ X.

Tác động của văn hóa Việt đối với văn hóa Trung Hoa đã không được xác định một cách chính thức, nhưng nó khá rõ rệt. Ngôn ngữ của các tiểu quốc cổ Ngô và Việt tạo nên ngôn ngữ Ngô, và phần nào tới ngôn ngữ Mân ở Phúc Kiến. Những nhà nghiên cứu ngôn ngữ cho rằng một số từ tiếng Trung Hoa có nguồn gốc từ tiếng Việt cổ chẳng hạn như từ jiang (giang), có nghĩa là sông. Những tàn tích về người Việt có thể quan sát được trong một số nhóm thiểu số ở Trung Hoa.

Ở Chiết Giang, nhà hát được gọi là rạp diễn Việt kịch. Tiếng Việt là một bộ phận của tiếng Trung Hoa và thường được gọi là tiếng Quảng Đông. Mẫu tự chính thức và các phương ngữ hình thành từ nó được sử dụng ở Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam, Hồng Kông, Ma Cao và tại một số cộng đồng Hoa Kiều trên thế giới.

Một số tên gọi khác của người Việt còn truyền được tới nay là Yi-Yue (hoặc Yu-Yue/ Ngải-việt), Mân-việt, Sơn-Việt, Dương-Việt (người Việt ở biển), U- Việt và Câu-Ngô. Những nhà nghiên cứu tiếng dân tộc cho rằng tên gọi người Việt có liên quan đến nghề chế biến cây gai dầu ở miền nay là Chiết Giang.

Chữ Việt cũng được xem là từ chỉ lưỡi phủ việt, một dụng cụ hay khí giới giống cái búa hay cái rìu, hình chữ nhật, biểu trưng cho quyền lực hoàng gia hay đế chế. Nhiều dụng cụ dạng rìu bằng đá đã được tìm thấy ở Hàng Châu, do vậy, nhiều học giả cho rằng lưỡi việt (búa dùng trong nghi lễ) là một sáng chế của miền Nam. Chữ Việt cũng từng được dùng để chỉ Quảng Đông và Quảng Tây [4] .

Cho dù nhiều bộ tộc Việt vẫn thấp thoáng đó đây trên lãnh thổ CHND Trung Hoa và để lại những dấu ấn trong sử sách đến cuối đời Hán, nay chỉ có thể kể tên vài nhóm dân Việt như Palyu “Lai”, Bugan “Hualuo hay Huazu”, Bit, Bulang, Hu, Kemu, Khuen, Wa… Di sản lớn nhất của người Việt cổ chính là miền Bắc Việt Nam, miền đất mà họ chạy về đó định cư do sự truy bức của Trung Hoa.

Về các tộc thiểu số khác ở khu vực nay là biên giới Trung Việt, theo sách của S. Robert Ramsey. Những ngôn ngữ của Trung Hoa (The Languages of china) tr. 233, không chỉ có Hakka (Khách gia, miền nam gọi là Hẹ), Mân và người Quảng Đông, là những người ở miền Nam Trung Hoa từ đầu, mà từ lâu đời người Thái đã thấp thoáng đóng một vai trò có qui mô ngay trước khi một thiên hạ Trung Hoa lộ rõ. Từ đầu thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên, những khu vực trồng lúa đã lốm đốm xuất hiện ở lưu vực sông Dương Tử. Vẫn theo S. Robert Ramsey, trong số các tiểu quốc được điểm tên trong lịch sử Trung Hoa có Ngô, ở gần Thượng Hải hiện nay, và Việt nằm dọc theo bờ biển Nam Trung Hoa, là những quốc gia của người Thái. Các quốc gia này dần dần bị Trung Quốc nuốt dần và đa số người Thái đã trở thành người Trung Hoa, qua đồng hóa về văn hóa và ngôn ngữ. Một nhà dân tộc học đã ước tính rằng ít nhất 60% người Quảng Đông có tổ tiên là thổ dân nói tiếng Thái.


Bản đồ các khu vực lẻ tẻ do nhà Tần chiếm được của các nhóm tộc Bách Việt ở phía Nam sông Dương Tử sau năm 210 TCN.

Về các vùng khác thuộc miền Nam Trung Hoa nói chung: miền Nam Trung Hoa trước thời Hán bao gồm nhiều nền văn hóa gần với Đông Nam Á như văn hóa Đông Sơn. hoặc những nền văn hóa nổi tiếng hơn như Ngải, Di hoặc Ba Thục. Trong đó, văn hóa Điền ở Vân Nam thể hiện những cư dân khác sau thời đồ đồng. Xứ Vân từng cho thấy mối liên hệ về các nhóm người phương Nam với những bức tranh trong hang vẽ pháp sư (saman) khua gươm cong, chuôi có núm tròn kiểu Hán, thể hiện quyền lực trên đầu một đám đông. Người Hán từng có tục xăm mình để trấn áp những chứng bệnh nhiệt đới cũng như những cừu thù trong thời gian chiếm đóng những vùng đất thù địch.

Ở Vân Nam, văn hóa hiện đại của địa phương này không có nhiều liên hệ với nền văn hóa thuần Hán của vùng đồng bằng trung tâm cả về tín ngưỡng, trang phục, ẩm thực. Ở Vân Nam, còn tồn tại tục ăn côn trùng.

Những nguồn và ý kiến trên thường thuộc về các nhà nghiên cứu phương Tây, ít gây tranh cãi hơn so với những ý kiến dưới đây.

Nhóm thứ nhất (người Trung Hoa, đa số là ở lục địa) cho biết một số phát hiện và khẳng định sau:

Người Quảng Đông cách đây 2.000 năm là sự pha trộn giữa người Việt tại chỗ và người Hán. Người Việt lúc đó gần với người thiểu số dân tộc Nùng hiện nay ở Việt Nam.

Vương quốc Nam Việt gồm những cư dân người Kinh (?) sống ở đó nhưng họ là người Trung Hoa. Quảng Đông và Quảng Tây cũng như quốc gia cổ Nam Việt, không có quan hệ với dân tộc hiện nay mang quốc hiệu Việt Nam. Hoặc họ (người Trung Hoa ở phương Nam) không có quan hệ gì với người Nam Việt, cho dù Triệu Đà, vua Nam Việt lúc đó là người Hán.

Trong khoảng 100 năm gần đây người Hoa di cư xuống Việt Nam là từ Lưỡng Quảng và Phúc Kiến. Người Hán phương Bắc, theo nhóm thứ nhất, hầu như không di cư xuống Việt Nam, họ chỉ chạy sang Nam Triều Tiên vào năm 1949 và định cư chủ yếu ở Pusan và Seoul.

Người Hoa di cư xuống phía Nam thường không phải là người Hán. Họ tự gọi mình là người Minh Hương, hiện ở Việt Nam còn thế hệ thứ tư của những người Minh Hương, phần nhiều không nói, viết được tiếng Hoa.

Người miền Nam Trung Hoa có ngoại hình khác với người Trung Hoa phương Bắc. Nhà Nguyên Mông chia người Trung Hoa thành các nhóm: Mông, du mục người Hán phương Bắc, người Hoa phương Nam. Một vài ý kiến cho rằng người Trung Hoa phương nam có ngoại hình phần nào giống với người Việt Nam.

Nhiều người Quảng Đông hiện đại còn giữ được gia phả theo đó tổ tiên của họ di cư từ phía bắc xuống Quảng Đông vào đời Đường (618-907) và đời Tống (960-1279). Cuộc di cư lớn nhất xảy ra vào cuối đời Tống, họ cư trú ở nơi mà người Nam Việt đã bị đẩy xuống Quảng Tây hoặc Việt Nam hiện nay, nơi mà khi đó những người Choang là thiểu số so với người Kinh chiếm đa số.

Người Trung Hoa ở phương Nam hiện nay nói chung đã bị Hán hóa.

Còn có trên 50 triệu người thuần huyết thống Nam Việt hiện ở Quảng Tây và Quế Lâm.

Những người thổ dân thuộc các bộ tộc thiểu số Lê, Tày, Đai…, được chính phủ Trung Hoa xếp vào cùng nhóm với người Choang, nhóm này có tổng dân số trên 20 triệu người.

Không có nhiều người Quảng Đông sinh ra ở Việt Nam. Cộng đồng Trung Hoa ở Việt Nam chủ yếu là những người nói tiếng Triều Châu (Tiều) hoặc Phúc Kiến [5] .

An Dương Vương (Thục Phán), Triệu Đà, cũng như anh hùng dân tộc của Việt Nam Lý Bí, đều là người phương Bắc Trung Quốc.

Nhiều ý kiến của nhóm thứ nhất thường nhấn mạnh rằng họ là những người Quảng Đông thuộc về hệ Hán, hiện chiếm đa số ở khu vực Lưỡng Quảng, và “rất tự hào về nguồn gốc Hoa Hạ và Đông Di của mình”, hiện chung sống với “các dân tộc thiểu số” đáng yêu có nền văn hóa rực rỡ, danh giá thuộc về giòng dõi Nam Việt. Rằng đa số người Trung Hoa hiện đại không cho rằng nước Nam Việt lúc đó gần với Âu Lạc (được xem là nằm trong vương quốc Nam Việt) hơn là gần với Trung Hoa. Rằng những người Việt Nam hiện đại kém hiểu biết cần được dạy dỗ, rằng họ chỉ có quan hệ với Âu Lạc, nhưng không có quan hệ gì với vương quốc Nam Việt. Cổ sử Trung Hoa, theo họ chép rằng những người Hán đã tàn sát và đánh đuổi những bộ lạc Việt về phía Nam và xuống đồng bằng sông Hồng trong “các cuộc chinh phạt cướp đất”. Có ý kiến khuyên người Việt không nên tự hào về dòng dõi Nam Việt vì đây chính là giống Nam Man [6] . Một số ý kiến cho rằng người Việt nhìn chung là “bội bạc”, “quanh co”, đàn ông Việt Nam không chăm chỉ và không chú trọng xây dựng gia đình theo khuôn mẫu Á đông. Có ý kiến lại cho người Việt là đần độn và khờ dại. Cũng có ý kiến cho rằng người Việt hiện đại xấu hổ (?) vì dòng dõi Bách Việt và tìm cách “leo thang” để gắn mình với người Quảng Đông và người Trung Hoa. Và cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ không được người Mỹ ưa chuộng(?)

Xin nêu thêm một số phát hiện đến từ cả hai nhóm và các nhà nghiên cứu phương Tây:

Nhà Tần (221-206 tCn) cũng có truyền thuyết về con chim thần (tựa như Âu Cơ).

Có nhiều người Việt cổ bị đồng hóa thành Trung Hoa nhiều năm trước đây. Chẳng hạn họ Âu-dương đến từ đất Lư Lăng của vương quốc Việt cổ. Có một hoàng tử Việt mang họ này bị nhà Chu bắt. Hậu duệ của ông, một sử gia nổi tiếng nhà Tống mang họ này. Hiện nay, ở một số tỉnh miền Nam Trung Hoa còn nhiều người mang họ này. Một số người Quảng Đông cũng mang họ này. Sử gia đời Tống Âu-dương Tu cho rằng người Việt có cùng một tổ tiên với với người [Hoa?] Hạ, một quan điểm bị nhóm thứ nhất của Diễn đàn này phê phán.

Các khu vực Tứ Xuyên, Quảng Tây, Quảng Đông, Vân Nam từng có nền văn hóa riêng và dân cư khác biệt, không in dấu lên triều đình Hán hay các nghi thức đặc trưng cho đế chế Trung Hoa.

Quảng Châu được Ngô vương Tôn Hạo, vua thứ tư nhà Đông Ngô, chắt của Tôn Quyền, chia tách từ Triều [?] Châu [7] vào năm 264.

Có lượng đáng kể của dòng máu Trung Hoa trong huyết quản người Lạc Việt và U Việt. tức là người Việt hiện đại.

Những người U Việt thuộc nhóm Bách Việt, bị nhà Thanh (1644-1911) dồn đuổi xuống lãnh thổ Việt Nam. Chuyện chín chúa tranh vua” (Cẩu chúa cheng vùa) của các dân tộc Tày, Nùng… có thể là minh họa cho sử liệu này.

Khái niệm “Hán hóa” từng thuộc về những đường biên giới cổ đại thật xa lạ với hiện nay. Không thể xem là những tộc người thiểu số đang không được đãi ngộ ở CHND Trung Hoa, cho dù một số trong họ đã biến mất trong những triều đại phong kiến sau cùng. Miền Nam Trung Hoa từng thuộc những tộc người thiểu số hiện cung cấp một ít di sản phục vụ cho du lịch. Không nên nghĩ rằng tất cả công dân Trung Hoa thực thụ hiện đang cố trở nên càng giống Hán càng tốt. Những dị biệt về tính cách sắc tộc và văn hóa vẫn còn tiềm tàng ở CHND Trung Hoa, thể hiện cả ở nét mặt của những người không phải dân tộc Hán. Những khu vực như Tân Cương hay Tây Tạng về cốt lõi văn hóa vẫn cho thấy sợi chỉ mỏng manh của bản sắc văn hóa và cho thấy rõ ràng nên xem xét cư dân hoặc sở hữu đất đai (!) có thể xem là hoàn toàn Trung Hoa hay không. Sự hiện diện trước đây của những thổ dân không phải người Trung Hoa có thể thấy rõ trong những tài liệu khai quật được. Nhưng công nhận hay không công nhận điều này cũng không thể xem như lý do để chuyển sang đề tài chính trị. Càng không phải duyên cớ để các khu vực khác khoanh vùng để đòi lại… (đây là ý kiến từ phương Tây).

Nghiên cứu DNA do các trung tâm ở Thượng Hải, Côn Minh và Hoa Kỳ (Center for Genome Information, Department of Environmental Health, University of Cincinnati, Cincinnati, Ohio 45267, USA) chỉ ra rằng người Bắc Trung Hoa (Tây An và Bắc Kinh) và người Nam Trung Hoa (Quảng Châu, Thượng Hải) có cùng mẫu ADN.

Một ý kiến đáng chú ý từ nhóm thứ hai – chủ yếu gồm người Việt hải ngoại, kể cả những người di tản sau năm 1975, trong đó có cả người Việt gốc Hoa – không gặp phải phản kháng của nhóm thứ nhất: Việt là từ mà người Hoa Hạ gắn với thổ dân khu vực đông nam của Trung Hoa mà họ gặp phải. Định nghĩa khái lược này hợp với một địa bàn rất rộng ở Đông Nam Á… bao gồm ngoài đông nam Trung Hoa còn bao gồm Tây Nam nước này. Đông Nam Á xét về vị thế, Đông bắc Ấn Độ, các đảo trên Thái Bình Dương, và Madagascar. Dân này nói tiếng Austronesian, Tai-Kadai, Austroasiatic và Hmong-Mien (Mon-Khmer).

—————————-

Chú thích:

[1]Người dịch tổng hợp và chú thêm niên đại để người đọc tiện theo dõi. Chú thích trong bài là của ban biên tập Xưa & Nay.

[2]Theo một nguồn nữa, các bộ lạc không phải người Hán gồm: Hoa Di (thuộc bộ tộc Lô Lô) hay Xu và Việt ở phía đông, Khuyển Nhung ở phía tây, Di ở phía bắc, Pu, Khương và Man ở phía tây nam và phía nam.

[3]Theo một Website phương Tây được công nhận rộng rãi [?], nước Ngô cũng là một quốc gia của người Việt nằm ở nam Giang Tô và bắc Chiết Giang. Giới quý tộc của hai quốc gia này học tiếng Trung, thuận theo pháp luật Trung Hoa và học theo công nghệ quân sự Trung Hoa, phát triển giao thông thủy là chính, và nghề nuôi trồng thuỷ sản, chứ không chỉ làm thuần nông nghiệp. Hai nước này cũng nổi tiếng về nghề đóng tàu và tác chiến trên sông nước, cũng như nghề làm gươm. Vào thời Chiến Quốc, hai nhà nước Ngô và Việt, bắt đầu can thiệp mạnh hơn vào chính trường Trung Hoa. Năm 506 trCn, chiến tranh bùng nổ giữa Ngô và Việt, lúc ác liệt lúc lắng dịu trong suốt 30 năm sau. Tới năm 473 trCn, Việt Vương Câu Tiễn chiếm được Ngô, được các lân bang là Tề và Tấn công nhận. Năm 333 trCn, đến lượt Việt bị Sở thôn tính.

[4]Như khái niệm biên khu Việt-Quế được dùng khoảng giữa thế kỷ XX, bên kia biên giới là hai tỉnh Lạng Sơn và Quảng Ninh của Việt Nam.

[5]Được phương Tây xem là những nhánh của ở phương Nam có liên hệ với Hán tộc. Tuy nhiên, một trang Web thông dụng của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ phương Tây [?] cho rằng tiếng Phúc Kiến và Triều Châu là phương ngữ phụ trong tiếng Mân.

[6]Là một trong số các dân tộc mà người Hán coi là mọi rợ (Đông Di, Tây Nhung, Nam Man, Bắc Địch). Xin lưu ý ở trên có ý kiến của người Quảng Đông hiện đại thể hiện sự tự hào là người Đông Di.

[7][có thể ông LĐH nhầm. Sau khi Sĩ Nhiếp chết, năm 226, Đông Ngô đã chia Giao Châu ra làm hai châu: Quảng Châu gồm các quận Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô và Giao Châu gồm các quận Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam. và cử Sĩ Huy, con Sĩ Nhiếp làm thái thú Cửu Chân, nhưng Sĩ Huy không tuân lệnh mà dấy binh chiếm giữ Giao Chỉ. Thứ sử Giao Châu là Đái Lương và thứ sử Quảng Châu là Lữ Đại cùng hợp binh tiến đánh và giết chết mấy anh em Sĩ Huy. Khi đó Đông Ngô lại hợp nhất Quảng Châu với Giao Châu như cũ, phong Lữ Đại làm thứ sử Giao Châu, và đến năm 264 mới chia lại thành Quảng Châu (trị sở tại Phiên Ngung, nay là thành phố Quảng Châu) và Giao Châu (trị sở tại Long Biên). Giao Châu mới gồm có 6 quận: Giao Chỉ, Tân Xương, Vũ Bình, Cửu Chân, Cửu Đức và Nhật Nam, bao gồm miền Bắc Việt Nam cộng thêm khu vực Khâm Châu (thuộc Quảng Tây) ngày nay và bán đảo Lôi Châu thuộc tỉnh Quảng Đông) ngày nay.

Theo TẠP CHÍ XƯA & NAY
0

Vùng đất Lưỡng Quảng và mối quan hệ với người Việt cổ

Trong thời kỳ Chiến quốc, vương quốc Việt cũng chao đảo dưới những biến động chính trị, nhưng lộ trình văn hóa của nó vẫn khác xa văn hóa Trung Hoa “chính thống” [Hán] của lưu vực sông Hoàng Hà.

Bài viết đăng tải trên Tạp chí Xưa & Nay số 295, 11/2007 tr. 30-33. Lê Đỗ Huy lược thuật.
0

Cuộc gặp kỳ lạ của Trần Hưng Đạo với sứ giả Sài Thung

Trong cuộc tiếp đón viên sứ Sài Thung của nhà Nguyên, Hưng Đạo Vương đã ngồi yên cho kẻ thù chọc đầu đến chảy máu mà không hề thay đổi nét mặt.


Trước mặt Sài Thung, Hưng Đạo Vương ngồi xuống pha trà và cùng uống với hắn. Về sau, người hầu của Thung nhận ra ông, cầm mũi tên chọc vào đầu Trần Quốc Tuấn đến chảy máu, sắc mặt ông vẫn không hề thay đổi.

Khi về, Sài Thung ra tận cửa tiễn ông. Toàn bộ chuyện này đã được sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi chép lại.

Ngồi yên cho kẻ thù chọc thủng đầu

Năm 1277, Thượng hoàng Trần Thái Tông qua đời, vua Trần Thánh Tông nhường ngôi lại cho Hoàng thái tử Trần Khâm, tức vua Trần Nhân Tông.

Biết tin, Hốt Tất Liệt sai Lễ bộ thượng thư Sài Thung dẫn sứ đoàn sang Đại Việt trách móc việc vua mới lập mà không “xin mệnh” của Nguyên triều.

Khi tiến vào biên giới nước ta, Sài Thung dẫn theo vệ binh rầm rộ, đòi triều đình Đại Việt phải phái người lên tận biên tiếp giới đón.

Trước sự ngạo mạn đó, vua Trần Nhân Tông gửi thư có ý trách móc: “Nay nghe quốc công đến biên giới tôi, biên dân không ai là không lo sợ, không biết sứ nước nào mà đến lối đó, xin đem quân về đường cũ mà đi”. Sài Thung không đồng ý lại hạch sách đủ điều.

Vào tới nước ta, Sài Thung rất ngạo mạn, vô lễ. Y cưỡi ngựa đi thẳng vào cửa Dương Minh, quân sĩ Thiên Trường ngăn lại. Thung dùng roi ngựa quất họ bị thương ở đầu.

Đến điện Tập Hiền, thấy giăng đầy màn trướng, hắn mới chịu xuống ngựa. Vua sai Thượng tướng Trần Quang Khải đến sứ quán khoản tiếp, Thung vẫn nằm khểnh trong nhà không ra. Quang Khải vào hẳn trong phòng, hắn cũng không thèm ngồi dậy tiếp.

Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn nghe thấy thế liền tâu với vua Trần xin đến sứ quán xem Thung làm gì. Trước khi đi, Trần Quốc Tuấn đã gọt tóc, mặc áo vải. Đến sứ quán, ông đi thẳng vào phòng. Thung đứng dậy, vái chào và mời ngồi.

Mọi người đều kinh ngạc, bởi cứ ngỡ người gọt tóc, mặc áo vải này là nhà sư phương Bắc. Ông ngồi xuống pha trà và cùng uống với hắn.

Về sau, người hầu của Thung nhận ra ông, hắn cầm cái tên chọc vào đầu Trần Quốc Tuấn đến chảy máu, nhưng sắc mặt Hưng Đạo Vương không hề thay đổi. Khi về, Sài Thung ra tận cửa tiễn ông.

Trần Hưng Đạo và triết lý đánh giặc

Sau cuộc gặp gỡ đó, nhà Nguyên kéo quân sang xâm lược nước ta, dưới sự lãnh đạo của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, quân và dân Đại Việt đã đánh bại hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược.

Bàn về nghệ thuật quân sự đánh bại quân Mông Cổ, Hưng Đạo Vương đã viết trong Binh thư yếu lược rằng: “Người giỏi thắng không cần thắng nhiều lần, mà cần toàn thắng, đảm bảo thắng”.

Đó chính là tư tưởng cốt lõi trong phép dùng binh của ông. Nghĩa là thắng trận cuối cùng mới là quan trọng nhất. Trong cuộc kháng chiến quân Nguyên Mông, ông đã tiến hành phương thức tác chiến rất đặc biệt.

Ông chủ trương chuyển từ trực tiếp đối đầu với khí thế hung hãn của quân Nguyên, sang tránh chỗ mạnh, tấn công vào chỗ yếu của địch. Sau những cuộc chiến ban đầu, ông hiểu rằng đối đầu ngay tức thì không phải chiến thuật hữu dụng trong tình huống này vì những đội quân muốn đánh nhanh thắng nhanh thường có nhược điểm chí tử, đó là công tác hậu cần.

Khi quân địch mới vào nước ta, tinh thần chúng rất mạnh, ông cùng hai vua Trần lui về Vạn Kiếp. Giặc truy kích đến Vạn Kiếp, Vương lại đưa quân về Thăng Long. Giặc đuổi theo đến Thăng Long, ông rút về Thiên Trường (Nam Định). Cứ thế, quân ta tránh đụng độ với giặc trong nhiều tháng.

Thay vì tiến hành những cuộc tiến công trực diện ít có cơ hội chiến thắng, đánh vào điểm yếu này của địch sẽ là cách tốt nhất lấy đi sức mạnh của chúng. Áp dụng chiến lược lui binh, ông khiến cho địch không thể đánh theo cách đánh của chúng, nói theo cách khác, ông chủ động kéo dài cuộc chiến đấu. Khi đó, thiếu lương thực, địch tự làm chúng suy yếu.

Chẳng thế mà khi quân Mông Cổ tiến vào kinh thành Thăng Long, thấy thành bỏ trống, không có một bóng người, do Trần Hưng Đạo đã thực hiện kế “thanh dã” – vườn không nhà trống trước đó, chúng đã điên lên.

Nắm được chìa khoá tiêu diệt địch, khi quân Nguyên lần thứ ba đưa quân sang xâm lược Đại Việt (1287-1288), Trần Hưng Đạo đã tự tin tâu với vua Trần “năm nay đánh giặc nhàn”.

Sau khi Trần Khánh Dư tiêu diệt đội binh lương của quân địch tại Vân Đồn, quân địch lại rơi đúng vào tình huống ngặt nghèo về lương thảo, đã từ thế chủ động tấn công sang tình trạng dần mất phương hướng và rơi vào thế trận chiến tranh nhân dân của ta.

Bàn về sức mạnh của nhân dân, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã viết rằng: “Hình dáng trận như chữ nhân, tiến cũng là chữ nhân, thoái cũng là chữ nhân, họp lại cộng làm một người, tan ra cũng làm một người, một người làm một trận, nghìn muôn người hợp làm một trận, nghìn muôn người động làm một trận”.

Theo NGUYỄN THANH ĐIỆP / TRI THỨC TRỰC TUYẾN
0

Cuộc gặp kỳ lạ của Trần Hưng Đạo với sứ giả Sài Thung

Trong cuộc tiếp đón viên sứ Sài Thung của nhà Nguyên, Hưng Đạo Vương đã ngồi yên cho kẻ thù chọc đầu đến chảy máu mà không hề thay đổi nét mặt.

0

Chuyện lạ về vị quan sống qua 13 đời vua Nguyễn, đi thi năm 82 tuổi

Sinh vào năm Gia Long 17 và mất năm Bảo Đại thứ 4, Đoàn Tử Quang có lẽ là người duy nhất đã sống qua hết triều Nguyễn.



Thí sinh “cổ lai hy”

Nền thi cử khoa bảng gần 1.000 năm ở nước ta có không ít những thí sinh đỗ đạt khi tuổi đã tứ tuần, ngũ tuần. Tuy nhiên, ở tuổi 82 mà còn đi thi thì chỉ có mình ông Đoàn Tử Quang mà thôi. Ông sinh năm 1818, triều vua Gia Long thứ 17, người làng Phụng Đạt, xã Phụng Công – Hương Sơn, nay là xã Đức Hòa và Đức Lạc, huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh.

Đoàn Tử Quang là con thứ hai của ông Đoàn Nhuyện (có biệt hiệu là Liệt Giang cư sĩ) và bà Lê Thị Nậm. Chồng mất khi mới 20 tuổi nhưng bà Nậm nhất quyết không đi bước nữa mà ở nhà thờ chồng và dạy dỗ con trẻ nên được tiếng tốt và được vua ban cho tấm biển “Tiết hạnh khả phong”.

Từ nhỏ đã được mẹ khuyến khích học hành, theo đuổi khoa cử để lập công danh nên Đoàn Tử Quang rất chăm chỉ học tập. Chăm chỉ lại sáng dạ nên Đoàn Tử Quang học rất giỏi. Dù vậy, như câu thành ngữ “học tài thi phận”, ông thi nhiều lần mà chẳng đỗ. Cho đến tận lúc tuổi già ông chỉ 2 lần đỗ tú tài: một lần năm ông 49 tuổi và một lần năm 66 tuổi.

Năm 1900, triều đình lại tổ chức khoa thi. Trước đó mấy tháng, vợ cả của Đoàn Tử Quang mất. Hai người con trai của Tử Quang đều là sĩ tử, đã vượt qua khảo hạch nhưng theo luật lệ lúc ấy, họ phải để tang mẹ, không được thi. Bà Lê Thị Nậm lúc này đã 98 tuổi vẫn áy náy trong lòng vì con cháu mình học hành đến nơi đến chốn mà chưa ai đỗ đạt cho rạng mặt cha ông. Dịp này vì việc gia đình, hai đứa cháu lại phải bỏ lỡ một kỳ thi Hương thật là đáng tiếc.

Con cái phải để tang mẹ đã đành còn chồng thì lễ giáo vẫn cho phép dự thi kia mà. Nghĩ vậy, bà cụ hết sức động viên con trai mình là ông Đoàn Tử Quang – lúc này đã 82 tuổi, lều chõng đi thi. Biết chuyện, bà con hàng xóm cùng họ hàng thân thích cũng ra sức cổ vũ, khuyên nhủ ông Quang bớt sầu não, xếp việc riêng tư để đi thi, thử tranh đua với thiên hạ phen nữa, may ra đỗ đạt cho thỏa lòng mong mỏi của mẹ bấy lâu mà cũng rạng rỡ tổ tông. Vâng lời mẹ, Đoàn Tử Quang lại lều chõng đi thi phen nữa.

Cả trường thi ngạc nhiên

Chuyến lều chõng của Đoàn Tử Quang năm 1900 được chép khá rõ trong cuốn Chuyện thi cử và lập nghiệp của học trò xưa của tác giả Quốc Chấn (Nxb Thanh Hóa). Chuyện kể rằng, khoa thi Hương ở trường Nghệ An năm Thành Thái thứ 12 (1900), các quan giám khảo thấy Đoàn Tử Quang râu tóc bạc phơ, hỏi tuổi đã bát thập mà vẫn nuôi chí học hành thi cử thì đều cho là chuyện lạ hiếm thấy và tỏ lòng bái phục. Nhưng ai cũng ái ngại cho ông lão, sợ ông ta trí óc già nua lú lẫn khó làm nổi bài thi.

Chánh chủ khảo Khiếu Năng Tĩnh chứng kiến việc này và đã viết bài ký: “Nghệ trường giai sư” (việc đáng nói ở trường thi Nghệ An) kể về quá trình thi cử của cụ Đoàn Tử Quang: “Vào thi, ông Đoàn cũng mang ống quyển, hạ lều, trải chiếu và ngồi ngay ngắn, nghiêm chỉnh ở vị trí của mình theo đúng qui định một cách nhanh nhẹn không thua kém gì thí sinh trẻ tuổi.

Có người cho rằng ông Đoàn khó qua nổi vòng thi đầu tiên, vì ở cái tuổi đại thọ như ông rất dễ quên hoặc nhầm lẫn không viết tránh các tên húy theo quy định. Tuy vậy đến kỳ phúc hạch, còn lại 35 người trong đó có ông Đoàn. Lần này các quan trường lại cho là văn sách thơ phú ông không nhớ được nhiều, chữ viết tay run e rằng khó tránh nghiêng ngả, đậm nhạt không đúng kiểu. Nhưng thí sinh 82 tuổi này một lần nữa lại làm các quan trường ngạc nhiên khi khớp phách thấy bài của ông được chấm ưu về kinh nghĩa, thơ phú và loại thứ về văn sách. Chữ không hề run mà còn rõ ràng hơn nhiều thí sinh khác”.

Qua 4 kỳ thi, Đoàn Tử Quang đạt kết quả 2 ưu, 2 thứ, kém thủ khoa Phan Bội Châu 1 ưu. Đáng lẽ Đoàn Tử Quang được xếp Á nguyên nhưng khi xét trong quyển, nơi cộng các chỗ tẩy xóa, theo quy định, thí sinh phải viết 3 chữ “cộng quyển nội” rồi mới được kê ra từng lỗi, thì ông lại không viết. Lỗi này là lỗi phạm trường quy, theo luật phải đánh hỏng nhưng quan chánh chủ khảo cảm phục chí học hành của ông nên đã làm tờ tấu về triều xin cho ông đỗ nhưng chỉ xếp thứ 29 trong 30 người đỗ.

Một lần bổ dụng ngoại lệ

Vậy là ở tuổi 82, Đoàn Tử Quang đã đỗ đạt, thỏa ước muốn bình sinh. Theo quy định của triều đình nhà Nguyễn lúc ấy thì các quan lại đến tuổi 65 là nghỉ hưu nhưng riêng trường hợp Đoàn Tử Quang, lúc này đã 82 tuổi song vẫn được đặc cách bổ dụng làm Huấn đạo (chức quan phụ trách việc giáo dục 1 huyện ) ở Hương Sơn. Sau một thời gian, ông lại được đổi về làm Huấn đạo Can Lộc. Năm 85 tuổi, Tử Quang xin về nghỉ để phụng dưỡng mẹ già lúc này đã trên trăm tuổi.

Để bày tỏ sự khuyến khích học hành, triều Nguyễn đã đặc cách phong chức cho Đoàn Tử Quang ở tuổi 83. Đến năm ông 106 tuổi, mặc dù đã nghỉ hưu, triều đình vẫn thăng cho chức Hàn lâm viện thị độc – một chức quan cấp Bộ để tỏ lòng ưu ái cho người bền chí học hành.

Ngoài sự bền chí trong học hành thi cử, Đoàn Tử Quang còn là một trong những người đại thọ của nước ta. Ông mất năm 1928, hưởng thọ đúng 110. Năm ông mất là năm Bảo Đại thứ 4. Nếu chỉ tính về triều đại thì Đoàn Tử Quang đã sống dưới đủ 13 triều vua nhà Nguyễn. Đây quả là một sự hiếm thấy.

Theo KIẾN THỨC
0

Chuyện lạ về vị quan sống qua 13 đời vua Nguyễn, đi thi năm 82 tuổi

Sinh vào năm Gia Long 17 và mất năm Bảo Đại thứ 4, Đoàn Tử Quang có lẽ là người duy nhất đã sống qua hết triều Nguyễn.

0

Giai thoại về những lời sấm truyền linh ứng trong lịch sử Việt Nam

Thông qua những câu sấm truyền, nhiều nhân vật kỳ tài trong lịch sử Việt Nam đã tiên đoán chính xác những sự kiện diễn ra sau hàng thế kỷ.



Thiền sư Định Không giải đoán hậu vận đất nước

Thiền sư Định Không (?-808) xuất thân từ một dòng tộc quyền quý họ Nguyễn, ở hương Cổ Pháp, Bắc Ninh. Sử sách ghi lại rằng ông là người am hiểu thế số, hành động đúng pháp tắc biết đoán định tương lai.

Lời sấm truyền linh ứng sau 200 năm của ông về sự ra đời của nhà Lý vẫn còn được lưu lại đến nay, nội dung như sau:

Pháp khí xuất hiện
Thập khẩu đồng chung
Tính Lý hưng long
Tam phẩm thành công


Dịch ra tiếng Việt:

Hiện ra pháp khí
Mười khẩu chuông đồng
Họ Lý hưng long
Ba phẩm thành công


Trước khi qua đời, sư truyền lời tiên tri về hậu vận đất nước cho học trò như sau: “Ta muốn mở rộng làng xóm, nhưng e nửa chừng gặp tai họa, chắc có kẻ lạ đến phá hoại đất nước ta. Sau khi ta mất, con khéo giữ pháp này, gặp người họ Đinh thì truyền, nguyện ta đã mãn”.

Hơn 60 năm sau, lời của ông đã linh ứng. Nhà Đường cử Tiết Độ Sứ Cao Biền sang cai trị, bóc lột nhân dân ta. Thâm độc hơn, chúng còn đến nhiều vùng đất, thế núi linh thiêng, nơi sẽ sinh người tài giỏi, trấn yểm triệt phá long mạch, trong đó có đất Cổ Pháp của sư Định Không. Một thế kỷ sau đó Đinh Tiên Hoàng (924 – 979) chấm dứt tình cảnh loạn lạc, sáng lập ra nhà Đinh và nước Đại Cồ Việt, mở đầu cho thời đại độc lập, tự chủ của người Việt.

Sau này, sự chấm dứt của triều Đinh (968 – 980) cũng ứng với một lời sấm không rõ tác giả, xuất hiện vào năm 974:

Đỗ Thích giết hai Đinh
Nhà Lê sinh thánh minh


6 năm sau, trong bữa tiệc tối, nhân lúc vua quan say rượu, hoạn quan Đỗ Thích đã giết vua và người con cả Đinh Liễn. Sau đó Lê Hoàn nắm quyền kiểm soát triều đình và trở thành hoàng đế, mở ra thời Tiền Lê. Dưới thời của ông đất nước được thịnh trị và giành chiến thắng vẻ vang trước cuộc xâm lược của nước Tống.

Thiền sư La Quý tiên đoán sự ra đời của Nhà Lý

Thiền sư La Quý (852 – 936) là người họ Đinh, cũng được lịch sử ghi nhận với khả năng tiên tri của mình. Tương truyền, trước khi qua đời ông đã trồng cây gạo ở chùa Minh Châu, làng Diên Uẩn và để lại những bài kệ:

Đại sơn long đầu khỉ
Cù vĩ ẩn châu minh
Thập bát tử định thiền
Miên thọ hiện long hình
Thổ kê thử nguyệt nội
Định kiên nhật xuất thanh


Dịch là:

Đại sơn đầu rồng ngửng
Đuôi cù ẩn Châu minh
Thập bát tử định thành
Bông gạo hiện long hình
Thỏ gà trong tháng chuột
Nhất định thấy trời lên


Do những từ “thập bát tử” ở câu số 3 là chiết tự của chữ Lý, nghĩa là họ Lý, nên bài thơ được diễn giải như sau: Đầu rồng hiện ở núi lớn / đuôi rồng giấu sự thịnh vượng / Họ Lý nhất định thành/khi cây gạo hiện hình rồng/ chỉ trong mấy tháng thỏ, gà, chuột / chắc chắn sẽ thấy mặt trời (vua) anh minh”. Điều này ứng với sự ra đời của nhà Lý vào tháng 11 (tháng chuột) năm Kỷ Dậu (năm gà) 1009.

Tài tiên tri của thiền sư Vạn Hạnh

Thiền sư Vạn Hạnh (938 – 1025) là người họ Nguyễn, quê ở châu Cổ Pháp (Từ Sơn, Bắc Ninh ngày nay). Ông là vị thiền sư có nhiều đóng góp trong việc mở ra nhà Lý đồng thời cũng là một nhà tiên tri.

Câu chuyện nổi tiếng nhất về khả năng tiên tri của thiền sư Vạn Hạnh gắn liền với cây gạo do thiền sư La Quý trồng ở làng Diên Uẩn. Theo Đại Việt Sử Ký, vào năm 1009, cây gạo này đã bị sét đánh và hiện lên những dòng chữ như sau:

Thọ căn diễu diễu
Mộc biểu thanh thanh
Hoa đào mộc lạc
Thập bát tử thành
Đông a nhập địa
Dị mộc tái sanh
Chấn cung kiến nhật
Đoài cung ẩn tinh
Lục thất niên gian
Thiên hạ thái bình


Dịch là:

Gốc cây thăm thẳm
Ngọn cây xanh xanh
Cây hoa đào rụng
Mười tám hạt thành
Cành đông xuống đất
Cành khác lại sanh
Đông mặt trời mọc
Tây sao ẩn hình
Sáu bảy năm nữa
Thiên hạ thái bình


Sư Vạn Hạnh đã giải đoán rằng, trong câu “Thọ căn diễu diễu” chữ “căn” là gốc, gốc là vua, chữ “diễu” đồng âm với chữ yểu, nghĩa là nhà vua (Lê Long Đĩnh) sẽ chết yểu.

Trong câu “Mộc biểu thanh thanh” chữ “biểu” là ngọn, ngọn là bầy tôi, chữ “thanh” đồng âm với chữ thịnh, nghĩa là một người trong số quần thần sẽ lên nắm chính quyền.

Ở câu 3, chữ “hoa đào” ghép lại thành chữ “lê”, tức là nhà Lê sẽ sụp đổ. Ở câu 4, ba chữ “thập bát tử” ghép lại là chữ Lý, tức là nhà Lý sẽ lên ngôi.

Trong câu “Đông a nhập địa”, chữ “đông” và chữ “a” ghép thành chữ Trần, nói về sự kế tiếp của nhà Trần sau nhà Lý. Câu “Dị mộc tái sanh” nghĩa là một họ Lê khác (Lê Lợi và nhà Hậu Lê) sẽ lại nổi lên…

Qua lời sấm này, thiền sư Vạn Hạnh đã tiên đoán chính xác những diễn biến lịch sử của dân tộc trong khoảng 5 thế kỷ, từ thời Tiền Lê đến thời Hậu Lê.

Việc cây gạo bị sét đánh và hiện ra lời sấm cũng đã được thiền sư La Quý tiên đoán trước đó với câu “Miên thọ hiện long hình” (Bông gạo hiện long hình), câu thứ 4 trong bài kệ năm 936 của ông.

Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm – nhà tiên tri số một

Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491–1585), người mà dân gian quen là Trạng Trình là một nhà văn hóa lỗi lạc của Việt Nam trong thế kỷ 16. Ông cũng được coi là nhà tiên tri số một trong lịch sử Việt Nam với nhiều câu sấm được để lại và tập hợp trong Sấm Trạng Trình. Tác phẩm này đưa ra những lời tiên tri trong chiều dài nhiều thế kỷ, đến nay vẫn còn được tìm hiểu và luận giải.

Dưới đây là một số sự kiện xảy ra trong thế kỷ 20, theo các nhà nghiên cứu đã được Sấm Trạng Trình dự báo trước đó 5 thế kỷ.

Cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 được tiên tri trong câu:

Đầu Thu gà gáy xôn xao
Trăng xưa sáng tỏ soi vào Thăng Long


Ở câu 1, “đầu Thu” là tháng 7 Âm lịch, “gà” nghĩa là năm Ất Dậu, thời điểm sự kiện lịch sử này diễn ra, “gáy xôn xao” nghĩa là có tiếng vang lớn, thức tỉnh muôn người.

Ở câu 2, “Trăng xưa” nghĩa là “cổ nguyệt” theo Hán tự, ghép lại thành từ “hồ”, là họ của Hồ Chủ tịch. “Sáng tỏ soi vào Thăng Long” là sự kiện Bác đọc Tuyên ngôn độc lập trước hang vạn đồng bào ở quảng trường Ba Đình của thủ đô Thăng Long – Hà Nội.

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954 được tiên tri trong câu:

Cửu cửu càn khôn dĩ định
Thanh minh thời tiết Hoa tàn
Trực đáo Dương đầu Mã vĩ
Hồ binh bát vạn nhập Tràng An


Câu 1, “cửu cửu” bằng 81 năm, khoảng thời gian từ khi triều đình Huế ký vào văn bản Hòa ước đầu hàng thực dân Pháp cho đến chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi, theo “càn khôn dĩ định” hay quy luật đất trời.

Câu 2, “thanh minh thời tiết” là thời điểm tiến hành chiến dịch Điện Biên Phủ rơi vào tháng 3 Âm lịch, “hoa tàn” là sự thất bại của người Pháp (thời Nguyễn Bỉnh Khiêm thượng gọi ngoại quốc là Hoa Lang”.

Câu 3, “trực đáo” là thẳng tiến, “dương đầu” là đầu năm con dê 1955, “mã vĩ”, là cuối năm con ngựa 1954.

Câu 4, toàn câu có nghĩa rất rõ ràng: tám vạn quân Cụ Hồ tiếp quản Thủ đô Hà Nội (tên gọi cũ là Tràng An).

Ngoài các sự kiện lịch sử, thời khắc “trở lại” của Trạng Trình cũng được ông ghi rõ trong câu sấm truyền:

Bao giờ Tiên Lãng xẻ đôi
Sông Hàn nối lại thì tôi lại về


Đúng như lời sấm, vào năm 1991, tròn 500 năm ngày sinh Nguyễn Bỉnh Khiêm, Tiên Lãng bị xẻ đôi ra vì có công trình đào con sông để làm kênh thuỷ lợi. Cùng lúc ấy có cây cầu được xây dựng nối sông Hàn từ quê Vĩnh Bảo của ông sang Thái Bình. Cũng từ năm ấy trở đi, tên tuổi, danh tiếng, tài năng kiệt xuất của Trạng Trình được sống lại. Lễ kỷ niệm 500 năm ngày sinh của ông được tổ chức long trọng tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám…

Theo KIẾN THỨC
0

Giai thoại về những lời sấm truyền linh ứng trong lịch sử Việt Nam

Thông qua những câu sấm truyền, nhiều nhân vật kỳ tài trong lịch sử Việt Nam đã tiên đoán chính xác những sự kiện diễn ra sau hàng thế kỷ.

0

Chúa Nguyễn đã xây dựng đàn voi chiến hùng mạnh như thế nào?

Để có được những chiến binh khổng lồ áp đảo đối phương, các nhà quân sự phía Nam bấy giờ đã áp dụng nhiều phương pháp tuyển chọn voi chiến kỹ lưỡng và có phần tàn nhẫn.



Trong cuộc chiến tranh với vua Lê, chúa Trịnh (Đàng Ngoài), một mặt các chúa Nguyễn (Đàng Trong) tìm sự giúp đỡ của các giáo sĩ phương Tây, mặt khác chủ động củng cố lực lượng quân đội.

Ngoài pháo binh, voi chiến là nỗi khiếp sợ của quân sĩ phía Bắc. Để có được những chiến binh khổng lồ áp đảo đối phương, các nhà quân sự phía Nam bấy giờ đã áp dụng nhiều phương pháp tuyển chọn voi chiến kỹ lưỡng và có phần tàn nhẫn.

Voi chiến Đàng Trong

Voi chiến thời chúa Nguyễn có nhiều cách gọi khác nhau như: Con voi, Tàu voi, Mục tượng, Tượng khố, Thớt voi,… Trong phiên chế quân đội, voi chiến có vai trò quyết định trong các trận kịch chiến đánh giáp lá cà. Lực lượng voi chiến được tuyển lựa qua nhiều con đường khác nhau.

Ngoài số lượng voi được nuôi (không nhiều), số còn lại là chiến lợi phẩm thu được từ chiến tranh (với các nước láng giềng), một số khác là cống phẩm nhận được từ các nước lân bang và một số lượng khá lớn thông quan con đường mua bán, trao đổi với các dân tộc ít người trong và ngoài nước.

Một thương nhân người Hà Lan trong quá trình buôn bán ở Đàng trong thế kỷ XVII cho biết số lượng voi chiến thời chúa Nguyễn năm 1642 là 600 con. Với số voi chiến khiêm tốn này, các chúa Nguyễn đóng vai trò như một thủ lĩnh quân sự hơn là một lãnh tụ thiên về chính trị, họ cũng các tướng lĩnh đã dồn hết tâm sức cho việc huấn luyện, tuyển chọn voi chiến, từ đó tìm ra được những “thần tượng” cho cuộc chiến tranh triền miên giữa hai miền.

Tuyển chọn voi chiến

Các tài liệu lịch sử cho thấy chúa Nguyễn Phúc Chu đã trực tiếp tham gia quá trình thao diễn lựa chọn voi chiến sung vào quân đội. Chúa ngồi trên một con voi cao lớn nhất, xung quanh có lĩnh bảo vệ. Ở phía Tây có mười con voi, trên lưng mỗi con đặt một cỗ yên, hình cái hộc, trong đó lại có 3 lính cầm vũ khí và một lính cầm câu liêm ngồi trên ngà voi.

Phía Đông huy động 500 quân cầm vũ khí các loại và đuốc châm lửa. Lực lượng quân này đứng cách đàn voi chừng 1.000 bước. Khi cờ lệnh phất lên, ba quân cùng múa đao thương nhằm thẳng đàn voi mà xông tới, lúc này đàn voi vẫn đứng yên.

Sau khi dàn trống được đánh lên, những binh sĩ cầm câu liêm bổ vào đầu voi, bầy voi chạy thẳng về phía trước dượt đuổi những binh sĩ đang tấn công. Tuy nhiên, để tránh thương vong về người, các binh sĩ này đã dùng các người bằng rơm để dụ voi chiến ở một khoảng cách an toàn. Khi đã chạy sát hình nhân bằng rơm, voi dùng vòi quấn và siết mạnh, hạ gục đối thủ.

Trong lúc đó, voi nào chạy chậm sẽ bị binh sĩ dùng thương đâm, búa bổ vào người đến nỗi máu chảy, da đứt, nhiều con voi vì quá mệt và bị tấn công dữ dội đã ngã gục tại trận. Quá trình này giúp chúa Nguyễn tìm ra những thớt voi đủ sức mạnh và can đảm tham gia chiến trận, đồng thời loại bỏ những voi chưa đáp ứng yêu cầu.

Sau khi chọn lựa được các voi chiến phù hợp, những tướng lĩnh và voi vượt qua thử thách đều được thưởng. Trong khi diễn tập, mỗi voi đều có 50 lính trông coi.

Việc huấn luyện và tuyển chọn voi chiến của chúa Nguyễn để lại nhiều bài học kinh nghiệm cho các tướng lĩnh và triều đại sau. Cuối thế kỷ XVIII, vua Quang Trung sở hữu 300 voi chiến đặt dưới quyền của nữ tướng Bùi Thị Xuân đã làm cho quân đội của Nguyễn Ánh nhiều phen hồi xiêu phách lạc. Đội tượng binh này mạnh đến mức Nguyễn Ánh phải đặt lệ thưởng 50 quan tiền và thăng một bậc quan nếu ai giết được một voi chiến của quân Tây Sơn.

Vai trò của voi chiến

Trong chiến trận, voi được sử dụng voi chiến như một pháo đài di động. Trên lưng voi, từ gác canh nhỏ, người lĩnh có thể quan sát được đối thủ di chuyển và tấn công như thế nào. Tại đây, binh sĩ có cung tên, súng hỏa mai, thậm chí đại bác cỡ nhỏ, voi chiến thừa sức khỏe để làm những việc này.

Trong một số trường hợp, người ta còn chứng kiến, một con voi sử dụng ngà để nâng một khẩu trọng pháo, một con khác cùng lúc hạ thủy cả 10 chiếc thuyền nhỏ.

Trong bảy lần chiến tranh (từ năm 1627 đến năm 1672), quân đội Đàng Trong đã 6 lần đẩy lùi sự xâm lấn của vua Lê, chúa Trịnh, để rồi cuối cùng phải giảng hòa, chọn sông Gianh phân đôi đất nước. Trong trận chiến thứ bảy năm 1672, chúa Nguyễn sử dụng voi chiến uy hiếp đối thủ, buộc quân Trịnh phải lui binh.

Khi hai quân đã áp sát nhau, chỉ còn cách dòng sông trước mắt, tướng Đàng Trong cho người đưa đoàn voi chiến gồm 60 con cùng binh lính khí giới chỉnh tề hành quân chậm rãi từ cửa Đông Bắc, sau đó đi vào cửa Tây Nam rồi vòng lại từ giờ Thìn đến giờ Ngọ. Quân Đàng Ngoài thấy voi đi ra mà không đi vào sinh nghi và dự đoán số voi của đối phương lên đến 5000-6000 nên không dám vượt sông.

Để phá tan sự ngờ vực này, tướng nhà Trịnh là Lê Thì Hiến cử sứ giả sang bờ Nam sông rò xét nội tình chúa Nguyễn. Đến bờ Nam nhận được câu trả lời số voi mà họ thấy chỉ là một phần số voi chiến của chúa Nguyễn đang đi dạo chơi mà thôi.

Số phận voi chiến trong thời bình

Sau cuộc chiến bất phân thắng bại với Đàng Ngoài, giữ được đất đai, dân cư, voi chiến của các chúa Nguyễn được nhàn hạ hơn. Ngoài các cuộc diễn tập quân sự hàng năm, số lượng voi chiến từng được tuyển lựa kỹ lưỡng được chúa Nguyễn bày ra trò cho voi chiến đấu với cọp (hổ quyền) làm thú vui.

Đỉnh điểm, vào năm 1750, chúa Nguyễn và các quan cùng đến cồn Dã Viên ở Huế (bên bờ sông Hương) để xem voi đấu với cọp. Trong trận tử chiến này, chỉ khi trải qua 40 trận chiến đấu và 18 con cọp bỏ mạng trên đấu trường, cuộc chiến mới dừng lại. Điều này càng khẳng định thêm sự dũng mãnh và sức mạnh vô địch của voi chiến.

Theo HELINO
0

Chúa Nguyễn đã xây dựng đàn voi chiến hùng mạnh như thế nào?

Để có được những chiến binh khổng lồ áp đảo đối phương, các nhà quân sự phía Nam bấy giờ đã áp dụng nhiều phương pháp tuyển chọn voi chiến kỹ lưỡng và có phần tàn nhẫn.

0

Những tiết lộ mới về chiến dịch đánh quân Thanh của hoàng đế Quang Trung

Những gì đã viết, đã ghi nhận còn rất nhiều lỗ hổng khiến đời sau không hoặc hiểu không hết về vị vua bách chiến bách thắng Quang Trung – Nguyễn Huệ


Những điều này nằm trong cuốn Việt – Thanh chiến dịch của tiến sĩ Nguyễn Duy Chính được Nhà xuất bản Văn Hóa Văn Nghệ ấn hành năm 2016.

Lâu nay, Phong trào Tây Sơn lịch sử chúng ta đã viết khá nhiều. Đặc biệt là chiến thắng lẫy lừng của vua Quang Trung đánh đuổi quân Thanh ra khỏi bờ cõi Việt Nam năm Kỷ Dậu 1789, một chiến thắng đã khiến cho kẻ thù e sợ.

Nhiều điều chưa biết

Thế nhưng, những gì đã viết, đã ghi nhận còn rất nhiều lỗ hổng khiến đời sau không hoặc hiểu không hết về vị vua bách chiến bách thắng nầy.

Những câu hỏi như quân đội Tây Sơn gồm những ai? Làm thế nào để Tây Sơn có một đội thủy quân mạnh? Các vị tướng của Quang Trung như các Đô đốc Lộc, Thủ, Tuyết, Thái sư Bảo… vì sao không có tiểu sử? Cách tiến quân thần tốc của Tây Sơn? Các phương tiện vận chuyển, vũ khí sử dụng, lương thực mang theo của quân Tây Sơn… vẫn chưa có lời giải thích hợp lý.

Và hầu hết những điều này được giải thích rõ hơn trong Việt – Thanh chiến dịch.

Việt – Thanh chiến dịch cho người đọc biết lực lượng của Tây Sơn là “đa tạp không thuần nhất” bao gồm “binh sĩ các vùng Thuận Hóa và Quảng Nam ở Đàng Trong, trong đó có một số đông người Thượng và người Hoa”.

Để bảo đảm đội binh nầy chiến đấu tốt và tuân lệnh chỉ huy tuyệt đối, Tây Sơn đã “áp dụng kỷ luật thép”.

Trước khi lên ngôi hoàng đế, vua Quang Trung đã công bố một sắc lệnh nói rõ rằng “nếu một sĩ quan hay binh lính nào phạm tội gì, các quan văn võ sẽ họp lại để xử họ và nếu họ đáng bị xử tử họ sẽ bị kết án tử hình”, đặc biệt là trường hợp “trốn bổn phận” sẽ bị “xử tử tức thì”.

Quân Tây Sơn sử dụng màu đỏ tía trong áo mặc và chỏm mũ. Quân đội gồm có bộ binh, tượng binh, thượng binh, thủy binh. Bộ binh chủ yếu là “thân binh Thuận Quảng” trang bị tối tân, rất kỷ luật gồm người Thuận Hóa, Quảng Nam, người Thượng và người Hoa.

Thượng binh hầu hết là người dân tộc thiểu số Tây Nguyên, Lào, Campuchia. Tượng binh đội binh quan trọng nhứt của Tây Sơn dùng để chở đại bác loại nhỏ, vũ khí, lương thực cũng do người dân tộc thiểu số điều khiển. Thủy binh bao gồm các ngư dân nghèo sống ven biển và hải khấu người Hoa.

“Đối với đám hải khấu lẻ tẻ vùng Quảng Đông, Phúc Kiến, Chiết Giang và Giang Tô, Nguyễn Văn Huệ (Quang Trung) được gọi là Đại Ca Việt Nam…”.

Đây là lực lượng đông đảo gồm hàng ngàn chiến thuyền, hàng vạn chiến binh có sẵn và sẵn sàng tham gia chiến đấu khi có lệnh.

Đủ loại vũ khí

Ngay khi mới khởi nghĩa, Tây Sơn đã sử dụng thương nhân Hoa kiều là Tập Đình và Lý Tài chiêu mộ một số người Hoa tổ chức thành Trung nghĩa quân và Hòa nghĩa quân.

Sử nhà Nguyễn chép “Lại lấy người thổ trước cao lớn, cạo đầu dóc tóc, lẫn lộn với người Thanh. Lúc đánh thì cho uống rượu say, cởi trần, đeo giấy vàng, giấy bạc vào cổ, để tỏ ý là tất chết; thường làm quân tiến xung, quan quân không thể chống được…”.

Một nhân vật được đề cập là Trần Thiêm Bảo. Nguyên Bảo làm nghề đánh cá ở Liêm Châu, Quảng Đông cùng vợ và hai con trai. Năm 1780 thuyền bị bão trôi dạt xuống phương Nam nên ở luôn tại khu vực gần Thăng Long.

Năm 1783, Bảo tham gia Tây Sơn và được phong chức Tổng binh, sau có nhiều công trạng được phong làm Bảo Đức Hầu, dưới tay có sáu chiến thuyền, chỉ huy một đạo quân trong đó có 200 người Việt.

Bảo còn chiêu tập được tất cả các nhóm hoạt động trong vùng biển Đông và vịnh Bắc Việt xây dựng cho Nguyễn Huệ một lực lượng thủy binh đáng kể.

Về vũ khí, Tây Sơn có đủ loại vũ khí từ dao mác bình thường, trong đó có loại đao dài, lưỡi đao dài bằng cán đao (có lẽ là một loại mác ngày nay vẫn còn được dân chúng vùng đồng bằng sông Cửu Long sử dụng), súng, hỏa hổ, hỏa cẩu, hỏa long (các loại súng phun lửa), đại bác, tiểu pháo và thuốc nổ.

Trong số nầy, hỏa hổ là loại vũ khí đặc trưng của Tây Sơn. Nguyễn Huy Túc, trong một tờ biểu đã miêu tả hỏa hổ:

“Tháng sáu năm thứ 51 (Bính Ngọ 1786), Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ công thành, nghe nói có đến hơn 5 vạn quân, khí giới của chúng phần lớn là giáo mác và hỏa đồng, còn có tên là hỏa hổ, có bầu lớn, dài chừng một thước, khi lâm trận phun lửa, trong ống tống nhựa thông ra, trúng phải đâu, lập tức bốc cháy, có cả hỏa pháo nhưng không nhiều”.

Trong 10 điều quân lệnh của Tôn Sĩ Nghị cũng ghi nhận: “Người An Nam có một loại võ khí đặc biệt gọi là hỏa tiễn. Họ dùng một loại súng có nòng dài chừng hai tấc rưỡi. Họ nhồi thuốc súng chia thành ba phần, sau đó dùng cây thụt phần thứ nhất và phần thứ hai riêng rẽ xuống nòng súng, đóng chặt mỗi phần vài trăm lần.

Phần thuốc nổ còn lại nhét vào đầu bằng sắt của một mũi tên cắm vào nòng súng. Bước kế tiếp là nhét một sợi tre khô vào trong hộp súng có dây dẫn lửa nối vào. Khi bùi nhùi được đốt lên, mũi tên bén lửa và bay ra. Mục tiêu của chúng là đốt cháy quần áo các ngươi…

Một loại võ khí đặc biệt khác của người An Nam là hỏa cẩu. Đó là một khối kim khí rỗng ruột nhét đầy thuốc súng và miểng sắt cùng lưu huỳnh, trên đầu có ngòi truyền ra. Lính của chúng sẽ đốt ngòi nổ và ném về phía ta, nếu thấy hỏa cẩu thì chỉ cần né tránh là không việc gì cả”.

Theo miêu tả, hỏa cẩu có thể là một dạng lựu đạn!

Lương thực là bánh tráng

Việt Thanh chiến dịch cũng cho biết lương thực của quân Tây Sơn mang theo khi tham gia chiến dịch là “bánh tráng” (có thể có cả bánh tét nữa).

Và quân được điều động, chỉ huy bằng tiếng trống, do đó mà khi Tây Sơn ra Bắc đã “cấm dân đánh trống”. Tiếng trống ở miền Bắc chỉ được nổi lên khi quân Thanh tiến vào Thăng Long!

Trong các trận đánh tiến vào Thăng Long năm Kỷ Dậu 1789 của Quang Trung cũng không “suôn sẻ” như sử ta kể lâu nay.

Cái tài của Quang Trung là đã thấy trước việc quân Thanh sẽ vào nước ta từ sau khi Nguyễn Hữu Chỉnh bị diệt.

Và khi quân địch ồn ào kéo vào nước ta thì ông khéo léo dụ địch bằng cách “giả bộ thua” và còn tương kế tựu kế nhiều lần “gởi thơ nhận tội” để địch tưởng rằng chỉ một hai trận nữa là diệt được Tây Sơn.

Trong khi đó thì ông âm thầm chuẩn bị thế trận. Tình hình quân Thanh ở Thăng Long thì Quang Trung nắm rõ như lòng bàn tay.

Trong một báo cáo, Trần Nguyên Nhiếp, một đô ty trong quân Tôn Sĩ Nghị ghi lại: “Ngờ đâu Nguyễn nghịch quỷ quyệt nên đã sắp đặt gian tế khắp nơi, lẻn vào đại doanh thám thính hư thực… Những nơi chứa lương hướng, hỏa khí của ta đều có tai mắt của giặc”.

Bắt đầu tấn công vào ngày 29 tháng chạp (24-1-1789), ngày 30 tháng chạp Tây Sơn vượt sông Giản Thủy đánh tan quân nhà Lê Hoàng Phùng Nghĩa rồi thẳng tiến hướng về Thăng Long.

Ngày mùng 3 tháng giêng, vua Quang Trung tự mình đốc chiến và đánh suốt ngày mới diệt được Hà Hồi, thiệt hại cũng lớn.

Ngày mùng 5 tháng giêng trận Ngọc Hồi cũng diễn ra ác liệt, theo tài liệu của Hội truyền giáo Bắc Hà, “Nguyễn Huệ phải bỏ voi cưỡi ngựa, xông lên đầu chỉ huy”.

Trần Nguyên Nhiếp viết: “Nghe nói đại doanh đã bị trận voi xông vào đốt cháy vì chưng mỗi con voi trên lưng đủ chỗ cho ba bốn tên giặc đầu quấn khăn đỏ ngồi ném các loại lưu hoàng, hỏa cẩu vào mọi nơi để đốt người”.

Còn trong trận Đống Đa do Sầm Nghi Đống và toán quân Miêu rất thiện chiến chống giữ rất hăng nhưng cũng không ngăn được đà tiến quân. Và cũng trong ngày mùng 5, Thăng Long bị “các cánh tượng binh và thủy binh của Nam quân từ ba mặt kéo vây” khiến Tôn Sĩ Nghị phải bỏ chạy.

Trần Nguyên Nhiếp ghi: “Đến được bờ sông, đại binh tranh nhau vượt qua. Cầu nổi làm bằng tre và gỗ bắc ngang sông đã bị đứt chìm xuống nước, lại thêm số nhân mã bị tượng trận đốt cháy chết chồng thêm lên một tầng nữa đè cầu xuống. Người đi qua chân đạp lên xác người ở bên dưới, chỉ còn đầu trồi lên phải đến ba dặm mới qua được bờ bên kia”.

Nguyễn Duy Chính đã bỏ ra 10 năm để nghiên cứu tài liệu về Tây Sơn và vua Quang Trung. Ông sử dụng tài liệu ở nước ngoài bằng Hoa, Pháp và Anh văn phối hợp cùng các tài liệu hoặc những phát hiện của người trong nước để xác định còn rất nhiều điều về thời đại nầy chưa được nói rõ ràng.

Theo TUỔI TRẺ ONLINE
0