kimluc
Hiển thị các bài đăng có nhãn Xã hội. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Xã hội. Hiển thị tất cả bài đăng

Phát biểu gây tranh cãi gay gắt của Lê Mã Lương


Lê Mã Lương tuyên bố sẽ cầm đầu các anh em, gồm những tướng lĩnh quân đội đến "hỏi thăm" Bộ Ngoại Giao VN nếu để mất Bãi Tư Chính. Phát biểu của tướng Lương tại Tọa đàm Khoa Học vùng biển Bãi Tư Chính và Luật Pháp Quốc Tế diễn ra tại Hà Nội, hôm 6/10/2019.
0

Sự thật khi nhịn ăn 40 ngày điều trị ung thư


VTC14 | Người mắc bệnh ung thư vẫn có 1 quan niệm sai lầm, đó là phải nhịn ăn để hạn chế sự phát triển của tế bào ung thư. Và không ít người bệnh đã gánh những hậu quả nặng nề vì quan niệm này. Mới đây, một người phụ nữ ở Hà Nội chỉ còn da bọc xương vì nhịn ăn hơn 40 ngày để điều trị căn bệnh này.
0

Ảo tưởng xây đường sắt cao tốc Bắc-Nam

Số phận đường sắt Bắc – Nam nói riêng, cùng với số phận đất nước nói chung, cũng chạy vòng quanh theo tư vấn nếu người quyết định không có tầm nhìn.

LTS: Tuần Việt Nam mở Diễn đàn "Vì Việt Nam hùng cường" với mong muốn thu nhận từ quý độc giả những ý kiến, bài viết về các giải pháp phát triển đất nước trong tất cả các lĩnh vực nhằm khơi thông tiềm năng phát triển, cổ vũ niềm tin của cộng đồng vào tương lai Việt Nam.

Chủ đề đầu tiên của Diễn đàn tập trung vào thể chế kinh tế. Mời quý vị cùng theo dõi.

(Sau khi giới thiệu các bài viết liên quan đến dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam, Diễn đàn nhận được nhiều ý kiến cùng chủ đề. Xin giới thiệu thêm ý kiến sau như là góp ý cho dự án đặc biệt này)
.

Sau khi Bộ Kế hoạch và Đầu tư đưa ra con số 26 tỷ USD cho đường sắt Bắc – Nam tốc độ 200km/h dựa trên tính toán của các chuyên gia Đức và Hà Lan đã dấy lên tranh luận về con số cách biệt 32 tỷ USD so với 58,7 tỷ USD cho tốc độ 350 km/h của Bộ Giao thông Vận tải.

Biện hộ cho con số 58,7 tỷ USD, ông Tổng giám đốc Công ty tư vấn TEDI Phạm Hữu Sơn nêu ra mấy điểm dưới đây:
1. Chi phí xây lắp đường sắt tốc độ 200 km/h giảm so với đường sắt tốc độ 350 km/h là 10%; chi phí thiết bị giảm 26%; các hệ thống thông tin tín hiệu, thiết bị phụ trợ có mức đầu tư cơ bản như nhau. Nên không thể có việc tổng mức đầu tư giảm hơn một nửa nếu xây dựng đường sắt Bắc Nam tốc độ 200 km/h thay vì 350 km/h.

2. Đường sắt tốc độ cao cần đảm nhiệm vận tải hành khách khối lượng lớn mà ngành hàng không và đường bộ không thể đáp ứng. Đường sắt tốc độ cao phù hợp cho các quãng đường từ 300 đến 800 km; nếu tàu Bắc Nam chạy tốc độ 200 km/h thì sẽ không thể cạnh tranh được với hàng không và các phương tiện khác.

3. Công nghệ chạy tàu tốc độ cao được Bộ Giao thông Vận tải đề xuất là "động lực phân tán" tương tự tàu Shinkansen của Nhật Bản, là xu thế được nhiều nước áp dụng. Nếu chọn tàu tốc độ 200 km/h sẽ đi ngược lại xu thế thế giới và nhiều thiết bị cho loại tàu này đã không còn sản xuất.

TEDI là công ty tư vấn về đường sắt Bắc - Nam của Bộ Giao thông Vận tải. Mọi chiến lược phát triển đường sắt Bắc - Nam của Bộ Giao thông Vận tải đều dựa vào TEDI. Ý kiến của TEDI ở một chừng mực nhất định thể hiện ý kiến của Bộ Giao thông Vận tải. Vì thế, không thể không phản biện quan điểm của TEDI. Qua phát biểu của ông Tổng giám đốc TEDI cho thấy Bộ Giao thông Vận tải có những cách nhìn chưa đúng sau đây.


Đường sắt cao tốc Bắc-Nam vận tài hàng hóa như thế nào, giá cả ra sao?

I. Vận tải hàng hóa là yêu cầu tiên quyết

Vận chuyển hàng hóa và vận chuyển hành khách là hai chức năng quan trọng của giao thông đường sắt. Ở nhiều tuyến đường, vận tải hàng hóa còn được ưu tiên hơn vận tải hành khách.

Với đường sắt sắt Bắc – Nam của Việt Nam, mang tính cột sống duy nhất kéo dài suốt đất nước qua hầu hết các tỉnh thành quan trọng, thì ưu tiên vận chuyển hàng hóa không thể kém ưu tiên vận tải hành khách. Bởi vậy, bất cứ đề xuất nào ở tốc độ, 200km, 350 km, 500 km… thì cũng bắt buộc phải chuyên chở được hàng hóa. Đây là điều kiện tiên quyết.
Bởi vậy, tuyến đường có vận tốc 350km/h hiện nay của Bộ GTVT đề xuất không chuyên chở được hàng hóa, thì bị loại hoàn toàn ra khỏi mọi xem xét. Đơn giản như trong toán học - là vi phạm tiên đề.

II. Những đánh giá không đúng của TEDI

Thứ nhất, do tính cột sống nối hầu hết các tỉnh thành trong cả nước, thì giao thông giữa các tỉnh thành mới là quan trọng số 1, chứ không chỉ là giao thông giữa 2 địa điểm Hà Nội và TP.HCM. Lượng hành khách và hàng hóa lưu thông giữa các tỉnh lớn hơn nhiều lần so với tuyến trực tiếp hà Nội – TP.HCM.

Chẳng hạn, với tốc độ 200km/h, tuyến Hà Nội – Vinh chỉ mất 1h 30 phút, Thanh Hóa – Vinh mất 45 phút, Vinh – Đồng Hới mất 1 h. Tương tự TP HCM – Phan Thiết mất 1 h. Phan Thiết – Nha trang mất 1h… Nghĩa là thời gian đi lại giữa các tỉnh ngắn và vô cùng thuận lợi.

Bởi thế lấy Hà Nội – TP HCM để so sánh với thời gian máy bay rồi khẳng định không cạnh tranh được với máy bay là một lầm lẫn ấu trĩ.

Thứ hai, các chủng loại giao thông là song hành cùng nhau, bổ sung cho nhau, chứ không phải loại trừ nhau. Lấy mục đích xây đường sắt 350km/h để cạnh tranh với máy bay, bóp chết vận tải hàng không là không thực tế , trái với biện chứng và tự trở thành mù quáng.

Thứ ba, vận tải hàng hóa mới là ưu điểm vô đối của tốc độ 200km/h mà TEDI có tình bỏ qua là một sai lầm nghiêm trọng.

Thứ tư, nói rằng thiết bị tàu hỏa đường sắt 200km/h đã ngừng sản xuất là hồ đồ. Hãy tìm hiểu lại đường sắt thế giới.

Nói dùng tốc độ 200km/h là “đi ngược với xu thế thế giới” là sai. Các hệ thống đường sắt là cùng song hành. Đường sắt cao tốc 350 - 500km/h chỉ chiếm một tỷ phần rất nhỏ. Chưa nước nào chỉ có mỗi đường sắt tốc độ cao trên 350 km/h, mà bỏ đi toàn bộ hệ thống đường sắt tốc độ dưới 350km/h, bỏ đi hệ thống đường sắt chở hàng.

Thứ năm, không có hành khách. Với tàu tốc độ 350km/h lưu lượng hành khách rất ít, do giá thành vé cao, dẫn đến còn lâu mới thu hồi vốn.

Thứ sáu, thời gian xây dựng kéo dài. Chắc chắn tuyến đường tốc độ 350km/h do giá thành đắt, không thể dễ dàng huy động nguồn vốn, nên sẽ kéo dài đến 20 -30 năm và còn lâu hơn nữa.

Thứ bảy, kéo theo gánh nặng nợ nần. Tổng vốn đầu tư 58,7 tỷ USD là quá sức đối với nền kinh tế Việt Nam. Tập trung nguồn lực lớn như vậy, việt Nam sẽ lún sâu vào gánh nợ, không còn nguồn lực dành cho các đầu tư khác. Chưa nói đến hiệu quả kém, chậm khai thác, và lâu hoàn vốn.

Thứ tám, ảo tưởng. Bệnh ảo tưởng đã lan nhiễm vào mọi ngóc ngách của nước ta. Nghèo đói nhưng lại đi vay để sắm cái đắt tiền nhất mà người giàu hơn nhiều lần cũng không dám sắm. Đã lạc hậu, nhưng lại mơ tưởng đi tiên phong trước cả các nước tiên phong, cho nên mới đề ra những câu khẩu hiệu phi thực tế loại: “ Đi tắt đón đầu”,…

Hệ thống tàu tốc độ 200km/h cả Âu - Mỹ sở hữu đã hơn nửa thế kỷ rồi mà Việt Nam còn mơ vẫn chưa được. Huống chi, còn có những người ảo tưởng hơn ngồi ở bộ GTVT mơ luôn lên trời xanh - lại mơ ngay làm đường sắt 350km/h, không chỉ bán cả gia tài, mà còn thế chấp cả tài nguyên, đi vay tiền mà mua mà xây cho bằng được, dẫu chỉ một đoạn, dẫu kéo dài cả mấy chục năm. Đó là tai họa lớn cho đất nước.

III. Tổng mức xây dựng đường sắt Bắc – Nam tốc độ 200km/h không quá 20 tỷ USD.

Mức đầu tư 26 tỷ USD cho đường sắt Hà Nội – Sài Gòn tốc độ 200km/h của Bộ Kế hoạch và Đầu tư là vẫn còn cao. Hãy cho các công ty tư nhân Việt Nam tính toán đầu tư thì con số sẽ về dưới 20 tỷ USD.

IV.Thời gian xây dựng 10 năm

Với bất cứ công trình kinh tế nào thì thời gian xây dựng càng nhanh càng tốt, càng sớm đưa vào khai thác càng có lợi. Với tổng số vốn đầu tư không đến 20 tỷ USD, với một ban điều hành giỏi, thời gian xây dựng tuyến đường sắt Bắc – Nam tốc độ 200km/h sẽ không vượt quá 10 năm.

Để cho các công ty tư nhân Việt Nam xây dựng đường sắt Bắc – Nam tốc độ 200 km/h thì chắc chắn giá thành dưới 20 tỷ USD và thời gian xây dựng dưới 10 năm.

Kết luận

1. Xây đựng đường sắt Bắc – Nam tốc độ 200 km/h là phương án duy nhất đúng cho Việt Nam.
2. Ưu tiên công nghệ châu Âu là nơi có hệ thống đường sắt tốc độ 200km/h phát triển rộng rãi nhiều năm và giàu kinh nghiệm.
3. Đặt mục tiêu xây dựng trong 10 năm.

4. Giới hạn cận trên cho tổng chi phí đầu tư là 20 tỷ đô la.

5. Mở thầu quốc tế dành cho các công ty Âu – Mỹ - Nhật về thiết kế, tư vấn, giám sát.

6. Chỉ có các công ty Việt Nam tham gia xây dựng đường sắt Bắc – Nam dưới sự thiết kế, tư vấn và giám sát quốc tế.
Đừng nghĩ rằng các công ty tư nhân Việt Nam chưa có kinh nghiệm nên không thể xây dựng đường sắt Bắc – Nam. Họ biết cách thuê chuyên gia nước ngoài để thiết kế, mua thiết bị và điều hành xây dựng, cùng chuyển giao công nghệ ở mức giá hợp lý. Mức giá của các công ty tư nhân khi phải tự bỏ tiền túi sẽ thấp hơn mức giá của nhà nước từ 2, 3, 4 lần, mà chất lượng lại đảm bảo theo dự kiến. Khác với nhà nước là chủ đầu tư, giá thành đắt gấp 2,3,4 lần nhưng chất lượng vẫn không xác định.

Vấn đề xây dựng đường sắt Bắc – Nam tốc độ nào, cách thức như thế nào, giá thành ước lượng bao nhiêu, trong khoảng thời gian nào, đã rất rõ ràng. Người quyết định có tầm nhìn sáng suốt sẽ cao hơn mọi lời của tư vấn. Còn đối với tầm nhìn phụ thuộc vào tư vấn thì câu hỏi mãi chạy vòng quanh. Và số phận đường sắt Bắc – Nam nói riêng, cùng với số phận đất nước nói chung, cũng chạy vòng quanh theo tư vấn.

Tiến sĩ toán học Nguyễn Ngọc Chu
0

Ảo tưởng xây đường sắt cao tốc Bắc-Nam

Số phận đường sắt Bắc – Nam nói riêng, cùng với số phận đất nước nói chung, cũng chạy vòng quanh theo tư vấn nếu người quyết định không có tầm nhìn.
0

Cư dân mạng nói gì về ý kiến lập MXH "made in Vietnam"?


VTC1 | Cư dân mạng đang có luồng ý kiến trái chiều trước thông tin của Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng về việc cần có mạng xã hội và công cụ tìm kiếm “made in Vietnam”.
0

Cư dân mạng nói gì về ý kiến lập MXH "made in Vietnam"?


VTC1 | Cư dân mạng đang có luồng ý kiến trái chiều trước thông tin của Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng về việc cần có mạng xã hội và công cụ tìm kiếm “made in Vietnam”.
0

Việt Nam là nước 'nghèo' nhất đầu tư đường sắt cao tốc?

TTO - Nhiều nước có tiềm lực kinh tế mạnh hơn trong khu vực Asean cũng chưa tính tới việc đầu tư đường sắt tốc độ cao đắt đỏ như Bộ GTVT đề xuất.


Đường sắt VN cần đầu tư nhưng với mức phù hợp, không quá khả năng thanh toán của người dân - Ảnh: T.T.D.

Đề xuất phương án đầu tư đường sắt cao tốc Bắc - Nam của Bộ GTVT đạt tốc độ 350 km/h với tổng vốn đầu tư hơn 58,7 tỉ USD là tương đương khoảng 1/4 GDP toàn nền kinh tế.

VN vừa thoát khỏi nhóm nước có thu nhập thấp để chạm tới nhóm nước có thu nhập trung bình thấp, thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 2.587 USD/năm, GDP của cả nền kinh tế ước đạt 240,5 tỉ USD vào năm 2018.

GS.TSKH Lã Ngọc Khuê, nguyên thứ trưởng Bộ GTVT, khẳng định nếu đề xuất đầu tư của Bộ GTVT được chấp thuận, VN là nước "nghèo" nhất trên thế giới đầu tư đường sắt cao tốc.

Các quốc gia đã đầu tư đường sắt cao tốc như Nhật Bản, Đức... đều là những nước giàu có hàng đầu trên thế giới. Từng giữ cương vị lãnh đạo trong ngành GTVT, GS.TSKH Lã Ngọc Khuê cho rằng để phát huy tối đa hiệu quả kinh tế các dự án đường sắt cao tốc đã đầu tư, nước Đức đã quyết định giảm tốc độ của các tuyến đường sắt cao tốc từ 320 km/h xuống khoảng 250 km/h.

Bởi điều này còn giúp tiết kiệm chi phí vận hành, chi phí thay thế thiết bị trong quá trình chạy tàu. Các đội tàu hỏa ICE3 có tốc độ chạy tàu 320 km/h đang dần được thay thế hết bằng đội tàu ICEx có tốc độ 250 km/h vào năm 2025 theo một chương trình điều chỉnh của Chính phủ Đức.

Vốn đầu tư tuyến đường sắt cao tốc Bắc - Nam 58,7 tỉ USD lớn gấp 50 lần chi ngân sách trung ương dành cho phát triển hạ tầng giao thông bình quân những năm qua. Nếu dự án đường sắt cao tốc được chấp thuận đầu tư trong 30 năm thì ngân sách trung ương, trong bối cảnh rất có hạn hiện nay, không loại trừ phải đình hoãn nhiều dự án khác.

Có tới 80% vốn đầu tư đường sắt cao tốc - khoảng 1.075.567 tỉ đồng (46,96 tỉ USD) - được Bộ GTVT dự kiến huy động từ ngân sách. "Nguồn vốn đầu tư đường sắt cao tốc rất lớn và bối cảnh nợ công áp trần cho thấy rủi ro tài chính khi thực hiện tuyến đường sắt cao tốc Bắc - Nam là không nhỏ" - chuyên gia kinh tế Nguyễn Trí Hiếu nhấn mạnh.

Điều đáng nói hơn, số liệu trong báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam cũng cho thấy dự án không mang lại hiệu quả kinh tế như mong muốn. Kể cả khi tốc độ tàu chạy tối đa theo thiết kế đạt 350 km/h thì thời gian chạy tàu từ Hà Nội - TP.HCM cũng mất khoảng 5 giờ, gấp hơn 2 lần thời gian di chuyển bằng máy bay.

Rõ ràng, trong bối cảnh các hãng hàng không giá rẻ ra đời ngày một nhiều hơn, sẽ rất khó để đường sắt cao tốc cạnh tranh.

Đề xuất đầu tư dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam cần loại trừ "căn bệnh vung tay quá trán" trong đầu tư công. Hệ quả nhiều dự án rơi vào đình trệ, chậm tiến độ... Bộ GTVT nên sớm có giải thích cụ thể hơn về phương án của mình sau khi Bộ KH-ĐT đã phân tích rất kỹ nhiều bất cập, tránh những băn khoăn của dư luận.

"Xài sang" mà không tương ứng với tính khả thi và hiệu quả, trong khi cần tới hàng chục tỉ USD, sẽ tạo nguy cơ không tạo thêm động lực, ngược lại sẽ trở thành gánh nặng cho nền kinh tế. Đó là vấn đề cần đặt ra trước khi quyết định đầu tư đại dự án này.

Nguồn: Tuổi Trẻ
0

Việt Nam là nước 'nghèo' nhất đầu tư đường sắt cao tốc?

TTO - Nhiều nước có tiềm lực kinh tế mạnh hơn trong khu vực Asean cũng chưa tính tới việc đầu tư đường sắt tốc độ cao đắt đỏ như Bộ GTVT đề xuất.


Đường sắt VN cần đầu tư nhưng với mức phù hợp, không quá khả năng thanh toán của người dân - Ảnh: T.T.D.
0

Chủ nghĩa xã hội qua góc nhìn của Albert Einstein

Nhiều lần Einstein tự giới thiệu mình là người theo chủ nghĩa xã hội. Nhưng ít ai biết đến bài báo “Why Socialism?” đăng trong số đầu tiên của tạp chí Monthly Review của Mỹ (số tháng 5-1949).



Albert Einstein (sinh năm 1879 tại Đức, mất 1955 tại Hoa Kỳ) được xem là một trong những nhà vật lý lớn nhất từ trước tới nay. Công trình chính của ông, thuyết tương đối (1905/1915), là xương sống của ngành vật lý hiện đại. Năm 1922, ông nhận Giải Nobel vì những đóng góp quan trọng cho vật lý học lý thuyết, nhất là việc khám phá định luật về hiệu ứng quang điện. Tháng 12-1932 ông sang Mỹ rồi không trở về nước khi Đức Quốc xã giành chính quyền vào đầu năm sau.

Không những là một nhà khoa học vĩ đại, Einstein còn hoạt động tích cực chống chiến tranh, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa quân phiệt. Trước nỗi khổ của dân tộc Do Thái, ông góp phần đáng kể vào việc thành lập và xây dựng nước Israel.

Nhiều lần Einstein tự giới thiệu mình là người theo chủ nghĩa xã hội. Nhưng ít ai biết đến bài báo “Why Socialism?” đăng trong số đầu tiên của tạp chí Monthly Review của Mỹ (số tháng 5-1949). Trong đó, ông đề cập đến những vấn đề của cả chế độ tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội.


Nguồn: Albert Einstein, Why Socialism? Monthly Review May 2009 [May 1949]

Biên dịch: Phạm Hải Hồ

——————————————

Sự khác nhau giữa khoa học và kinh tế [1]

Một người không phải là chuyên gia trong lĩnh vực kinh tế – xã hội có nên bày tỏ quan điểm về chủ nghĩa xã hội hay không? Một loạt lý do khiến tôi nghĩ rằng nên làm việc ấy.

Trước hết, chúng ta hãy xem xét vấn đề từ quan điểm khoa học. Bề ngoài có vẻ như không có sự khác biệt đáng kể nào về phương pháp giữa thiên văn học và kinh tế học: Các nhà khoa học thuộc hai ngành ấy đều cố gắng khám phá những quy luật được chấp nhận rộng rãi cho một nhóm hiện tượng để hiểu càng rõ càng tốt về mối liên kết giữa chúng với nhau. Tuy nhiên, trên thực tế lại có những khác biệt về phương pháp. Việc khám phá những quy luật chung trong lĩnh vực kinh tế gặp khó khăn, bởi vì các hiện tượng kinh tế chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố rất khó được đánh giá riêng biệt. Hơn nữa, như đã biết, kinh nghiệm tích lũy từ đầu giai đoạn gọi là “văn minh” chủ yếu bị ảnh hưởng và giới hạn bởi những vấn đề không chỉ có tính chất kinh tế. Chẳng hạn như đa số các thực thể quốc gia lớn trong lịch sử đều tồn tại nhờ xâm lăng nước khác. Các dân tộc xâm lược đã củng cố vị thế của mình – về pháp lý và kinh tế – là giai cấp có đặc quyền đặc lợi ở nước bị xâm chiếm. Họ nắm giữ độc quyền sở hữu đất đai và cử những người từ tầng lớp của mình vào chức linh mục. Trong vai trò quản lý hệ thống giáo dục, các linh mục đã thể chế hóa tình trạng phân chia giai cấp của xã hội và tạo ra một hệ thống giá trị ảnh hưởng tới hành vi xã hội của người dân mà những người này hầu như không nhận thức được điều đó.

Mặc dù truyền thống lịch sử ấy có thể nói là thuộc về quá khứ nhưng chúng ta chưa thực sự vượt qua cái mà Thorstein Veblen [2] gọi là “giai đoạn cướp bóc” ở nơi nào cả. Các dữ kiện kinh tế quan sát được thuộc về giai đoạn đó và cả những quy luật mà chúng ta có thể rút ra từ chúng cũng không thể áp dụng cho những giai đoạn khác. Vì mục tiêu thực sự của chủ nghĩa xã hội chính xác là để khắc phục và vượt qua giai đoạn nói trên, khoa học kinh tế hiện nay chỉ có thể giúp chúng ta hiểu một ít về xã hội xã hội chủ nghĩa trong tương lai.

Lý do thứ hai là, chủ nghĩa xã hội hướng tới mục tiêu đạo đức – xã hội. Nhưng khoa học lại không thể tạo ra những mục tiêu, nó càng không thể gợi cho con người những mục tiêu ấy; trong trường hợp tốt nhất, khoa học chỉ có thể cung cấp phương tiện để đạt tới những mục tiêu nào đó. Trái lại, các mục tiêu lại được những nhân vật có lý tưởng đạo đức cao cả nghĩ ra và – nếu không chết non mà mạnh mẽ, đầy sức sống – chúng sẽ được nhiều người tiếp nhận, phổ biến và quyết định, tuy có phần không chủ ý, sự tiến hóa chậm rãi của xã hội.

Bởi những lý do ấy, chúng ta nên thận trọng, không đánh giá quá cao khoa học và phương pháp khoa học khi xem xét các vấn đề của con người; chúng ta không nên cho rằng chỉ các chuyên gia mới có quyền phát biểu về những vấn đề liên quan đến tổ chức của xã hội.

Quan hệ giữa cá nhân và xã hội

Từ lâu nay, vô số tiếng nói khẳng định rằng xã hội loài người đang trải qua một cuộc khủng hoảng và sự ổn định xã hội bị phá hủy. Đặc điểm của một tình trạng như thế là những cá nhân có thái độ bàng quan, thậm chí đầy ác cảm đối với tập thể lớn hay nhỏ của họ. Để giải thích điều tôi muốn nói, tôi xin kể một kinh nghiệm cá nhân. Cách đây không lâu, tôi thảo luận với một người đàn ông thông minh và thân thiện về hiểm họa của một cuộc chiến tranh mới mà theo tôi, nó đe dọa nghiêm trọng sự sống còn của nhân loại và chỉ một tổ chức siêu quốc gia (a supra-national organization) mới có thể bảo đảm sự an toàn trước hiểm họa ấy. Đáp lại, người khách của tôi – rất bình thản, lãnh đạm – nói: “Tại sao bạn hết sức chống lại sự biến mất của loài người như vậy?”

Tôi chắc rằng chỉ trước đây một thế kỷ thôi, không ai có thể phát biểu một cách nông nổi như thế. Đó là phát biểu của một người đã nỗ lực tìm sự thăng bằng nội tâm nhưng vô ích và đã mất ít nhiều hy vọng thành công. Đó là biểu hiện của nỗi cô đơn, cách biệt khiến bao người phải đau khổ trong lúc này. Đâu là nguyên nhân của nó? Có lối thoát nào không?

Không khó đặt ra những câu hỏi ấy, nhưng trả lời chúng với một chút chắc chắn là điều khó khăn. Tuy vậy, tôi phải cố gắng hết sức, mặc dù biết rõ những cảm nghĩ và nỗ lực của chúng ta thường trái ngược nhau và khó hiểu vì không thể được diễn tả bằng những công thức đơn giản, dễ dàng.

Con người vừa là một cá thể vừa là thành viên của xã hội. Là một cá thể, con người cố gắng bảo vệ sự sống của mình và người thân cũng như tìm cách thỏa mãn nhu cầu cá nhân, phát triển năng khiếu bẩm sinh của mình. Là thành viên xã hội, con người cố tìm sự tôn trọng và yêu mến của đồng loại, chia sẻ niềm vui với họ, an ủi họ khi đau buồn và giúp họ cải thiện điều kiện sống. Chỉ sự hiện hữu của các nỗ lực đa dạng, thường trái ngược nhau ấy mới làm nên tính cách riêng của một người và sự kết hợp đặc thù của chúng quyết định mức độ một cá nhân có thể đạt tới trạng thái cân bằng nội tại và góp phần giúp ích cho xã hội. Hoàn toàn có thể là sức mạnh tương đối của hai động lực ấy chủ yếu phụ thuộc vào di truyền. Nhưng rốt cuộc rồi nhân cách vẫn thường được tạo nên bởi môi trường mà một người tình cờ lạc vào trong thời gian phát triển của mình, bởi cấu trúc xã hội mà trong đó anh ta lớn lên, bởi các truyền thống và sự phán đoán của xã hội về những hành vi khác nhau. Đối với con người cá thể, khái niệm “xã hội” trừu tượng có nghĩa là toàn thể các mối quan hệ trực tiếp và gián tiếp của người ấy với những người đồng thời và tất cả những người thuộc các thế hệ trước. Con người cá thể có khả năng tư duy, cảm xúc, phấn đấu và làm việc độc lập; nhưng trong đời sống thể chất, lý trí và tình cảm của mình, cá nhân phụ thuộc vào xã hội đến nỗi không thể nào nghĩ đến và hiểu cá nhân bên ngoài khung cảnh xã hội. Chính “xã hội” là cái đem lại cho con người quần áo, chỗ ở, công cụ lao động, ngôn ngữ, các hình thức tư duy và đa số nội dung tư tưởng; con người sống được là nhờ công sức và thành tựu của nhiều triệu người trong hiện tại và quá khứ, tất cả đều ẩn sau cái từ nhỏ nhoi “xã hội”.

Vì thế, sự phụ thuộc của cá nhân vào xã hội là một quy luật tự nhiên, một quy luật – cũng như loài kiến và loài ong – con người không thể xóa bỏ được. Tuy nhiên, trong khi cả quá trình sống của các loài ong kiến bị ràng buộc cho tới từng chi tiết nhỏ bởi bản năng di truyền bất biến, các mẫu hình xã hội và các mối quan hệ tương hỗ của con người dễ biến đổi và nhạy cảm với sự đổi thay. Ký ức, khả năng tạo ra cái mới và năng khiếu giao tiếp bằng lời nói là điều kiện cho con người có những phát triển không chịu sự chi phối của các nhu cầu sinh học. Các phát triển như thế hiện rõ qua những truyền thống, thiết chế và tổ chức; qua văn chương; qua những thành tựu khoa học kỹ thuật; qua những tác phẩm nghệ thuật. Điều ấy giải thích vì sao con người, trong một ý nghĩa nào đó, có thể tự tác động đến đời sống của mình và vì sao trong quá trình này, tư duy và ý chí có thể giữ một vai trò.

Qua đường di truyền, con người khi sinh ra đã có một cơ sở sinh học phải được xem là vững chắc, không thể thay đổi. Nó bao gồm cả các bản năng tự nhiên vốn đặc trưng cho loài người. Ngoài ra, trong cuộc đời mình con người còn tiếp nhận từ xã hội một nền tảng văn hóa qua việc giao tiếp và nhiều loại ảnh hưởng khác. Chính cái nền tảng văn hóa ấy phải chịu thay đổi theo thời gian và chi phối mạnh mẽ các mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội. Với những nghiên cứu đối chiếu các nền văn hóa gọi là “sơ khai”, ngành nhân chủng học hiện đại chỉ rõ rằng hành vi xã hội của con người có thể rất khác nhau và tùy thuộc vào những mẫu hình văn hóa, những cách thức tổ chức chiếm ưu thế trong xã hội. Đây chính là điều mà những ai mong muốn thay đổi số phận con người có thể đặt hy vọng vào: Không phải bởi nền tảng sinh học của mình mà con người buộc phải tiêu diệt lẫn nhau hay cam chịu những điều bất hạnh do con người tự gây ra cho mình.

Nếu chúng ta tự hỏi nên sửa đổi cơ cấu xã hội và quan điểm về văn hóa như thế nào để con người càng hài lòng với đời sống của mình càng tốt, thì chúng ta phải luôn luôn ý thức rằng có những hoàn cảnh không thể nào thay đổi được. Như đã đề cập trước đây, trạng thái sinh học của con người, trên thực tế, không chịu ảnh hưởng của sự thay đổi. Hơn nữa, những phát triển công nghệ và dân số học trong một vài thế kỷ gần đây đã tạo ra những điều kiện vững bền. Với một mật độ dân số tương đối cao và những vật dụng không thể thiếu cho sự tồn tại của họ, thì một sự phân công tối đa và một bộ máy sản xuất tập trung cao độ là hết sức cần thiết. Thời kỳ mà những cá nhân riêng lẽ hay những nhóm nhỏ có thể hoàn toàn tự cung tự cấp, thời kỳ có vẻ bình dị, yên ả khi hồi tưởng ấy đã vĩnh viễn qua rồi. Chỉ hơi cường điệu nếu khẳng định rằng nhân loại ngay bây giờ đã tạo thành một cộng đồng sản xuất và tiêu dùng toàn thế giới.

Bản chất cuộc khủng hoảng trong thời đại chúng ta

Đến đây, tôi có thể trình bày ngắn về vấn đề đối với tôi là bản chất cuộc khủng hoảng trong thời đại của chúng ta. Nó liên quan đến mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội. Hơn bao giờ hết, con người nhận thức về sự lệ thuộc của mình vào xã hội. Nhưng con người không trải nghiệm sự lệ thuộc ấy như một điều tích cực, một quan hệ hữu cơ, một sức mạnh che chở mình, mà như một mối đe dọa các quyền lợi tự nhiên hay ngay cả đời sống kinh tế của mình. Hơn nữa, con người có một vị trí trong xã hội cho phép các bản năng ích kỷ luôn luôn được nhấn mạnh, trong khi các bản năng xã hội vốn đã yếu thì ngày càng suy yếu hơn. Tất cả mọi người – cho dù họ có vị trí nào trong xã hội đi nữa – đều cảm thấy khổ sở vì quá trình ấy. Vô tình bị trói buộc bởi tính tự kỉ trung tâm, họ cảm thấy bất an, cô độc và mất đi niềm vui chân chất, giản dị và tự nhiên. Con người chỉ có thể tìm thấy ý nghĩa cuộc sống ngắn và đầy nguy hiểm của mình qua sự cống hiến cho xã hội.

Theo quan điểm của tôi, tình trạng vô chính phủ về mặt kinh tế hiện nay là nguồn gốc của sự tha hóa. Trước mắt chúng ta là một cộng đồng sản xuất khổng lồ mà các thành viên không ngừng tìm cách tước đoạt lẫn nhau các thành quả lao động tập thể – không bằng bạo lực nhưng thường bằng sự nghiêm chỉnh chấp hành luật lệ. Về phương diện này, điều quan trọng là nhận thức rằng các phương tiện sản xuất – tức là toàn bộ khả năng sản xuất cần thiết để làm ra hàng tiêu dùng cũng như tư liệu sản xuất mới – về mặt pháp lý có thể thuộc về tài sản cá nhân và đa số trường hợp cũng là như thế.

Để đơn giản hóa, sau đây tôi sẽ gọi “công nhân” là những người không sở hữu phương tiện sản xuất – mặc dù đó không hẳn là nghĩa thông thường của từ “công nhân”. Chủ sở hữu phương tiện sản xuất giữ một vị trí trong xã hội cho phép ông ta mua sức lao động của công nhân. Với các phương tiện sản xuất, người công nhân làm ra những sản phẩm mới và những sản phẩm này trở thành tài sản của nhà tư bản. Điểm chính yếu trong quá trình ấy là tỉ lệ giữa giá trị thực mà người công nhân tạo ra và tiền công anh ta thực sự nhận được. Nếu như hợp đồng lao động “để ngỏ”, tiền công của người công nhân không được định bởi giá trị thực của sản phẩm mà bởi nhu cầu tối thiểu của anh ta và yêu cầu về sức lao động của nhà tư bản so với số công nhân cạnh tranh việc làm với nhau. Điều quan trọng là nên hiểu rằng ngay cả trong lý thuyết, lương công nhân cũng chẳng được định bởi giá trị sản phẩm do anh ta làm ra.

Tư bản tư nhân có khuynh hướng tập trung vào tay một số ít người – một phần do sự cạnh tranh giữa các nhà tư bản, phần khác do phát triển công nghệ và sự mở rộng phân công lao động đã thúc đẩy quá trình hình thành những đơn vị sản xuất lớn, làm thiệt hại những đơn vị nhỏ hơn. Kết quả của những tiến trình ấy là một tập đoàn tư bản đầu sỏ với quyền lực to lớn mà ngay cả một tổ chức chính trị có cấu trúc dân chủ cũng không kiểm soát được. Thật vậy, các đại biểu của cơ quan lập pháp được bầu bởi những đảng phái chủ yếu nhận tài trợ hoặc ít nhất cũng chịu tác động của những nhà tư bản tư nhân, những người trên thực tế tách biệt cử tri với ngành lập pháp. Hậu quả là các đại biểu nhân dân không bảo vệ đầy đủ quyền lợi của các bộ phận dân chúng thiệt thòi về mặt xã hội. Hơn nữa, trong điều kiện hiện hữu, tất nhiên các nhà tư bản kiểm soát trực tiếp hay gián tiếp các phương tiện thông tin chính yếu (báo chí, đài phát thanh, hệ thống giáo dục). Vì thế nên công dân khó có thể, trong đa số trường hợp gần như không thể rút ra những kết luận khách quan và sử dụng các quyền chính trị của mình một cách khôn ngoan.

Tình trạng phổ biến trong một nền kinh tế dựa trên chế độ tư hữu về tư bản được mô tả bởi hai nguyên lý chính: thứ nhất, các phương tiện sản xuất (tư bản) thuộc sở hữu tư nhân, chủ sở hữu được tùy nghi sử dụng; thứ hai, hợp đồng lao động là hợp đồng để ngỏ. Dĩ nhiên không có xã hội tư bản nào là thuần túy theo đúng nghĩa. Đặc biệt cần lưu ý rằng sau những cuộc đấu tranh chính trị gay gắt và dai dẳng, công nhân đã thành công trong việc đảm bảo một hình thức sửa đổi đôi chút của “hợp đồng lao động để ngỏ” cho một số bộ phận công nhân nào đó. Nhưng nhìn chung, nền kinh tế hiện nay không khác gì chủ nghĩa tư bản “thuần túy” cho lắm.

Sản xuất vì lợi nhuận, không vì lợi ích. Không có một bảo đảm nào để những ai có khả năng và sẵn sàng làm việc đều có thể tìm được việc làm; gần như lúc nào cũng có một “đạo quân thất nghiệp”. Người lao động luôn luôn sợ mất việc làm. Vì những công nhân thất nghiệp và lương thấp không tạo thành một thị trường mang lại lợi nhuận nên việc sản xuất hàng hóa bị giới hạn và hậu quả là tình trạng nghèo khổ. Tiến bộ công nghệ thường khiến số người thất nghiệp tăng thêm thay vì làm giảm gánh nặng công việc cho tất cả mọi người. Cùng với sự cạnh tranh giữa các nhà tư bản, động cơ lợi nhuận là nguyên nhân của sự bất ổn trong quá trình tích lũy vốn và đầu tư, khiến cho ngày càng có nhiều đợt suy thoái nặng nề hơn. Cạnh tranh vô giới hạn khiến lao động bị lãng phí rất nhiều và làm bại liệt ý thức xã hội của những cá nhân mà tôi đã đề cập tới.

Tôi cho rằng tình trạng bại liệt ấy là tai họa lớn nhất của chủ nghĩa tư bản. Cả hệ thống giáo dục của chúng ta phải chịu tổn thất vì nó. Sinh viên bị nhồi sọ là phải nỗ lực cạnh tranh với nhau, họ được tập luyện để tôn thờ sự thành công hám lợi như là bước chuẩn bị cho đường công danh của họ.

Vấn đề tập trung quyền lực trong chủ nghĩa xã hội

Tôi tin chắc rằng chỉ có một phương cách loại trừ tai họa nặng nề đó, ấy là thiết lập một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa kèm theo một hệ thống giáo dục hướng tới những mục tiêu xã hội. Trong một nền kinh tế như thế, các phương tiện sản xuất thuộc về xã hội và được sử dụng theo kế hoạch. Một nền kinh tế kế hoạch điều tiết sản xuất theo nhu cầu sẽ phân phối công việc cho tất cả những ai có khả năng lao động và bảo đảm sinh kế cho mọi đàn ông, đàn bà cũng như trẻ con. Ngoài việc giúp con người khai thác năng khiếu bẩm sinh của mình, hệ thống giáo dục còn cố gắng phát triển trong con người một ý thức trách nhiệm đối với đồng loại, thay vì ca tụng quyền lực và sự thành công như trong xã hội hiện tại của chúng ta.

Tuy nhiên, cần phải nhớ rằng một nền kinh tế kế hoạch chưa phải là chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế kế hoạch theo cách hiểu thông thường có thể kèm theo một sự nô dịch hóa cá nhân hoàn toàn. Thành tựu của chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải có giải đáp cho vài vấn đề chính trị – xã hội vô cùng khó khăn: Xét đến việc tập trung hóa cao độ những lực lượng chính trị và kinh tế, làm thế nào để có thể ngăn ngừa một bộ máy quan liêu có quyền lực tuyệt đối, vô hạn? Làm thế nào để các quyền lợi của cá nhân được bảo vệ và nhờ đó mà một đối trọng dân chủ của bộ máy quan liêu được bảo đảm?

Nhận thức về các mục tiêu và vấn đề của chủ nghĩa là vô cùng quan trọng trong thời kỳ quá độ của chúng ta. Trong điều kiện hiện nay, việc thảo luận các vấn đề ấy một cách cởi mở, tự do là điều cấm kị [3] nên tôi cho rằng sự sáng lập tạp chí này là một dịch vụ công quan trọng.

—————————————————–

Chú thích:

[1] Các tiểu đề và lời chú thích là của người dịch.

[2] Thorstein Veblen (1827-1929): nhà kinh tế học và xã hội học Hoa Kỳ, nghiên cứu về sự hình thành chủ nghĩa tư bản độc quyền của Mỹ, lý thuyết về xã hội, những quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng v.v. Ông có ảnh hưởng lớn trong giới khoa học kinh tế quốc dân và xã hội học ở Mỹ.

[3] Chắc hẳn Einstein muốn nói đến chính sách chống cộng cực đoan ở Mỹ trong “thời kỳ McCarthy” (1947-1956). Không kể nhiều đảng viên cộng sản và lãnh tụ phái tả, những người bị tình nghi âm mưu lật đổ, phá hoại, hoạt động gián điệp đều là đối tượng của chính sách này. Trong số đó, có nhiều nhà khoa học (ví dụ như Edward Condon, Robert Oppenheimer, Albert Einstein) và nhiều văn nghệ sĩ danh tiếng (Charlie Chaplin, Thomas Mann, Bertold Brecht, Arthur Miller v.v.). Họ bị theo dõi, thẩm vấn điều tra, cách chức hay trục xuất, thậm chí bị án tù. Nặng nề nhất là trường hợp hai vợ chồng Julius và Ethel Rosenberg bị kết án tử hình vì tội cung cấp tài liệu làm bom nguyên tử cho Liên Xô, chủ yếu chỉ dựa trên lời khai của một em trai của Ethel. Năm 1953, hai người bị tử hình, bất kể sự phản đối dữ dội trên khắp thế giới.

Theo PRO&CONTRA
0

Chủ nghĩa xã hội qua góc nhìn của Albert Einstein

Nhiều lần Einstein tự giới thiệu mình là người theo chủ nghĩa xã hội. Nhưng ít ai biết đến bài báo “Why Socialism?” đăng trong số đầu tiên của tạp chí Monthly Review của Mỹ (số tháng 5-1949).

0

Nhận dạng bạn tình không chung thủy

Theo thống kê, cách này hay cách khác, có khoảng 50% người lừa dối bạn tình. Nhà tâm lý học xã hội Madeleine Fugère lập luận rằng có thể giảm bớt nguy cơ ngoại tình nếu ta biết đánh giá đúng về đối tác tiềm năng trước khi bắt đầu mối quan hệ sâu sắc.

Chàng hay nàng trông có giống như người dễ thay lòng đổi dạ?

Câu hỏi này có vẻ ngây thơ. Tuy nhiên, ấn tượng đầu tiên có thể khá đúng. Hơn nữa, có thể xác định xu thế thay đổi thậm chí từ một bức ảnh.

Năm 2012 có công trình nghiên cứu được thực hiện trong đó các đại diện nam và nữ được cho xem tấm ảnh của những người khác giới. Họ cần nêu giả thiết xác suất về chuyện nhân vật trong ảnh liệu có từng lừa dối bạn tình trong quá khứ hay không.

Phụ nữ hầu như không thể nhầm lẫn chỉ ngay vào những người đàn ông không chung thủy. Họ cho rằng vẻ ngoài hùng dũng đầy nam tính là một trong những dấu hiệu cho thấy chàng ta dễ xiêu lòng trước người đẹp lạ.

Trong khi đó đàn ông tin chắc rằng những phụ nữ hấp dẫn thường hay “say nắng” hơn. Hóa ra là trong trường hợp với phái nữ thì vẻ ngoài nhan sắc không phải là yếu tố đầu tiên khi nói về sự thiếu chung thủy.

Người ấy có giọng nói gợi cảm?

Cánh đàn ông ngờ vực về sự nhẹ dạ nông nổi nếu nữ chủ nhân nào có giọng nói cao ngạo kiêu kỳ, còn chị em phụ nữ tin rằng đại biểu nam giới nào có giọng nói trầm thấp dễ tiềm ẩn khả năng phản bội. Và những đoán định này là hợp lý. Các đại diện nam và nữ nếu có giọng nói gợi cảm dễ chịu thường hấp dẫn nhiều người cảm mến hơn và tương ứng họ ẩn chứa nhiều khả năng lừa dối bạn tình. Sẽ thú vị khi dành thời gian cùng với họ, nhưng rồi mối quan hệ lâu dài với người như vậy dễ biến thành nỗi thất vọng.

Người ấy liệu có vấn đề với rượu và ma túy?

Những người nghiện rượu, ma túy hoặc nghiện những thứ khác là đối tác không chung tình. Sự phụ thuộc nói lên vấn đề với khả năng tự kiểm soát: chỉ cần uống vào là người ấy sẵn sàng tán tỉnh khắp lượt và không hiếm khi cuộc tán tỉnh trong hơi men ấy kết thúc bằng cuộc giao hoan.

Làm sao tìm được đối tác chung tình?

Nếu các dấu hiệu ngoại tình tiềm ẩn bộc lộ ngay lập tức, thì chuyện tin chắc rằng đối tác trước mặt ta không thiên về xu hướng phản bội lại chẳng hề dễ dàng.

Nguy cơ phản bội sẽ giảm bớt nếu các đối tác có nhãn quan tôn giáo tương tự và trình độ học vấn ngang nhau. Nếu cả hai đối tác đều làm việc và hỗ trợ nhau thì sẽ ít có cơ hội để người thứ ba chen vào mối quan hệ của họ. Và cuối cùng, những người với tính cách tự tin ít thay đổi đối tác hơn là những ai có vấn đề với mặc cảm vị kỷ luôn cho mình là đẹp nhất.

Trong mối quan hệ hiện tại, những dấu hiệu liệt kê không phải là chỉ dấu ấn định. Về chuyện xác suất ngoại tình lớn đến đâu thì tính năng động của sự phát triển quan hệ thể hiện rõ nhất. Nếu qua thời gian mà sự hài lòng của cả hai đối tác về quan hệ chung không giảm sút, thì xác suất phản bội sẽ nhỏ.
0

Nhận dạng bạn tình không chung thủy

Theo thống kê, cách này hay cách khác, có khoảng 50% người lừa dối bạn tình. Nhà tâm lý học xã hội Madeleine Fugère lập luận rằng có thể giảm bớt nguy cơ ngoại tình nếu ta biết đánh giá đúng về đối tác tiềm năng trước khi bắt đầu mối quan hệ sâu sắc.

Chàng hay nàng trông có giống như người dễ thay lòng đổi dạ?
0

Một góc nhìn khác về Triệu Đà: Hóa giải những nỗi oan lịch sử

Nỗi oan thứ nhất: Triệu Đà là người phương Bắc. Nỗi oan thứ hai: Triệu Đà dẫn quân Tần xâm lược nước Việt. Nỗi oan thứ ba: Triệu Đà lừa lấy nỏ thần và diệt An Dương Vương…


Trong sử Việt có lẽ không có vị đế vương nào lại phải chịu tiếng oan ức như Triệu Đà. Oan không phải vì những gì Triệu Đà đã làm, mà vì các sử gia Việt mắt mờ, bị sử Tàu đánh tráo khái niệm, đánh tráo thời gian, biến một vị đế vương oai hùng đầu tiên của nước Nam người Việt thành một người Tàu xâm lược, thâm độc…

Nỗi oan thứ nhất: Triệu Đà là người phương Bắc

Sử ký Tư Mã Thiên chép: Vua Nam Việt họ Triệu tên là Đà người huyện Chân Định, trước làm quan úy. Thông tin thư tịch chỉ có vậy, thế mà không biết căn cứ vào đâu sách vở lại chú thích huyện Chân Định đời Tần “nay là” huyện Chính Định, Hà Bắc, Trung Quốc??? Triệu Đà bị biến thành người nước Triệu thời Chiến Quốc, quê gốc Hà Bắc.

Tần Thủy Hoàng bản kỷ chép: Năm thứ 33 Thủy Hoàng đưa những người thường trốn tránh, những người ở rể và những người đi buôn đánh lấy đất Lục Lương, lập thành Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải, cho những người bị đày đến đấy canh giữ. Ở phía Tây Bắc đánh đuổi Hung Nô từ Du Trung dọc theo sông Hoàng Hà đi về đông đến Âm Sơn tất cả 34 huyện, xây thành trên sông Hoàng Hà để làm giới hạn. Lại sai Mông Điềm vượt sông Hoàng Hà lấy đất Cao Khuyết, Đào Sơn, Bắc Giã xây đình và thành lũy ở đấy để đuổi người Nhung và đưa người bị đày đến đấy để ở và lần đầu những nơi này trở thành huyện.

Cùng năm Tần đánh Việt thì Mông Điềm mới vượt sông Hoàng Hà đánh Hung Nô và người Nhung, lập các huyện mới. Vậy đất Hà Bắc, tức là Bắc sông Hoàng Hà, tới lúc này mới lọt vào tay Tần, lấy đâu ra ông Triệu Đà người Hà Bắc lại cùng năm đó làm tướng Tần đánh Việt được?

Nam Việt Úy Đà liệt truyện chép: Bấy giờ nhà Tần đã chiếm cả thiên hạ, cướp lấy đất Dương Việt, đặt ra các quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận. Như vậy thời kỳ này đất Giao Chỉ đã nằm trong đất nhà Tần. Huyện Chân Định hoàn toàn có thể nằm ở chính Giao Chỉ chứ không đâu xa. Sự thật thì huyện Chân Định thời Tần là ở đất Thái Bình ngày nay. Chân Định là tên cũ của huyện Kiến Xương, mãi tới thời Thành Thái (1889) mới đổi là huyện Trực Định phủ Kiến Xương tỉnh Thái Bình.

Huyện Kiến Xương nay còn di tích là đền Đồng Xâm tại xã Hồng Thái thờ Triệu Vũ Đế, là bằng chứng rõ ràng rằng Chân Định của Triệu Đà là ở đất Thái Bình chứ không hề ở Hà Bắc, Trung Quốc. Tại Đồng Xâm Triệu Vũ Đế lấy vợ là Hoàng hậu Trình Thị. Như vậy Triệu Đà là người Việt chính gốc, chứ chẳng phải Tần hay Triệu nào ở tận Bắc Hoàng Hà.

Nỗi oan thứ hai: Triệu Đà dẫn quân Tần xâm lược nước Việt

Nỗi oan giời thấu thứ hai là Triệu Đà bị coi là kẻ xâm lược, đã cầm đầu quân Tần đánh Việt. Gọi là oan vì lần tìm hết các thư tịch cũ đều không hề có sách nào cho biết Triệu Đà đã cầm đầu quân Tần. Chỉ có trong Hoài Nam Tử có đoạn: [Nhà Tần] sai Úy Đà Đồ Thư đem lâu thuyền xuống Nam đánh Bách Việt. Cụm từ “Úy Đà” ở đây bị hiểu thành Triệu Đà. Hóa thành Triệu Đà cùng Đồ Thư đã dẫn quân xuống phương Nam.

Úy Đà là chức vụ của tướng Đồ Thư, với nghĩa như Đô Úy, tức là tướng thống lĩnh quân đội. Úy Đà biến thành tên riêng Triệu Đà dẫn đến nỗi oan chữ nghĩa khó giải của Triệu Vũ Đế.

Nam Việt Úy Đà liệt truyện chỉ chép: Thời Tần, Đà được làm lệnh ở huyện Long Xuyên, thuộc quận Nam Hải. Nếu Triệu Đà là tướng cùng Đồ Thư dẫn mấy chục vạn quân đánh Việt thì sao lại chỉ được làm một huyện lệnh nhỏ nhoi ở Nam Hải?

Huyện Long Xuyên nay là Long Biên, nơi còn đình đền thờ Triệu Vũ Đế tại xã Xuân Quan (Văn Giang, Hưng Yên). Theo sự tích ở đình Xuân Quan thì Triệu Vũ Đế khi đi qua bến sông này đã thấy rồng bay lên nên sau nhân đó đặt tên là … Thăng Long. Đình Xuân Quan được xây trên hành cung cũ của Triệu Vũ Đế, có tên là điện Long Hưng.

Thiên Nam ngữ lục thì chép về Triệu Đà:

Hiệu xưng là Triệu Vũ Hoàng
Chín lần xem trị bốn phương đẹp lòng
Long Biên thành hiệu Thăng Long
Vì xưa rồng dậy dưới sông Nhị Hà.


Triệu Vũ Đế lấy vợ ở đất Chân Định (Kiến Xương – Thái Bình), khởi nghĩa kháng Tần từ đất Long Biên (Thăng Long), hoàn toàn không phải kẻ xâm lược, dẫn quân Tần đánh Việt.

Nỗi oan thứ ba: Triệu Đà lừa lấy nỏ thần và diệt An Dương Vương

Triệu Đà bị coi là kẻ thâm độc, xâm lược nước ta vì truyền thuyết Việt kể Triệu Đà sau khi đánh An Dương Vương không được, phải giả vờ xin hòa, cho con là Trọng Thủy xin cưới công chúa Mỵ Châu của An Dương Vương và xin ở rể. Trọng Thủy nhân cơ hội đánh tráo lẫy nỏ thần của nước Âu Lạc, rồi tìm cách về nước, dẫn quân sang, đuổi An Dương Vương cùng đường mà phải chém Mỵ Châu và đi vào biển…

Một lần nữa các sử gia Việt đã lấy truyền thuyết ghép nối vào lịch sử, nhưng ghép theo kiểu râu ông nọ cắm cằm bà kia. Thư tịch Trung Hoa không hề có chỗ nào ghi Triệu Đà đánh An Dương Vương cả. Nam Việt Úy Đà liệt truyện chỉ ghi: Cao Hậu mất,… Đà nhân đó dùng uy lực uy hiếp nơi biên giới, đem đồ đạc của cải đút lót các nước Mân Việt, Tây Âu Lạc để bắt họ lệ thuộc mình.

Nếu Triệu Đà là người cầm quân Tần đánh Việt từ năm Tần Thủy Hoàng thứ 33 (214 TCN), lập ra quận huyện đầy đủ rồi, thì làm gì còn An Dương Vương và nước Âu Lạc nào sau đó nữa để mà Triệu Đà phải dụng tâm, khổ kể như vậy?

Các sử gia cho rằng Triệu Đà đã dùng phương sách “Hòa tập Bách Việt”, lấy vợ Việt, cho con trai mình lấy con gái vua Việt để dễ bề cai trị người Việt. Nhưng tất cả chỉ là chuyện kể trong truyền thuyết mà không có sử liệu nào cho biết rằng Triệu Đà đã đánh diệt An Dương Vương. Thậm chí truyền thuyết của người Choang ở Quảng Tây lại kể Trọng Thủy là hoàng tử của nước Tây Âu, cầm gươm “Hòa tập Bách Việt” sang nước Lạc Việt… Trọng Thủy ở đây không phải con của Triệu Đà.

Chuyện Trọng Thủy của nước Tây Âu đánh Lạc Việt đúng ra là chuyện Tần đánh Việt năm 257 TCN. Tây Âu ở đây là Tần. Trọng Thủy là con vua Tần. Nhà Tần còn mang họ Triệu như Tần Thủy Hoàng có tên Triệu Chính, lấy theo họ mẹ là Triệu Cơ. Sự trùng hợp này đã dẫn đến sự hiểu nhầm oan ức rằng Triệu Đà đã phái con sang do thám nước Việt và diệt An Dương Vương.

Bài thơ Khối tình con của Tản Đà nói đến chuyện Mỵ Châu – Trọng Thủy:

Một đôi kẻ Việt người Tần
Nửa phần ân ái nửa phần oán thương
.

Mỵ Châu là Việt thì Trọng Thủy là Tần, chứ không phải Triệu. Không phải Triệu Đà đã đánh An Dương Vương, mà là Tần Triệu đã thực hiện chính sách “hòa tập Bách Việt”, lập quận huyện ở trên đất Việt, di dời hàng vạn hộ dân xuống nơi đây.

Nỗi oan thứ tư: Triệu Đà trị vì 70 năm, thọ 121 tuổi

Chính vì “Hội nhà sử” ngày nay quá tin vào những chú dẫn “đểu” của sử Tàu mà không suy xét nên Triệu Đà mới thọ đến 121 tuổi, làm vua 70 năm (từ năm 207 TCN đến năm 137 TCN). Chỉ với tuổi thọ này cũng đủ thấy “nỗi oan” của Triệu Đà to như cái đình mà vẫn được các “học giả” tin sái cổ.

Khi đọc kỹ Sử ký Tư Mã Thiên sẽ thấy có 2 lần Triệu Đà xưng vương. Lần thứ nhất là vào năm Tần Nhị Thế thứ hai (207 TCN) Triệu Đà chiếm lại 3 quận mà Tần lập ra trên đất Việt trước đó (Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải) và tự lập làm Nam Việt Vũ Vương. Lần thứ hai là sau khi Cao Hậu (Lữ Hậu) mất năm 180 TCN Đà uy hiếp Mân Việt và Tây Âu, tự tôn là Nam Việt Vũ Đế.

Theo vậy hóa ra Tây Âu Lạc thì không nằm trong 3 quận mà Tần đã chiếm (Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải)? Điều này vô lý vì sách Hoài Nam tử cho biết: Trong 3 năm, [quân Tần] không cởi giáp dãn nỏ. Giám Lộc không có đường chở lương, lại lấy binh sĩ đào cừ cho thông đường lương để đánh nhau với người Việt. Giết được quân trưởng Tây Âu là Dịch Hu Tống. Quân trưởng Tây Âu là Dịch Hu Tống đã bị Giám Lộc, Đồ Thư giết thì sao mãi tới thời Tây Hán vẫn còn Tây Âu?

Tuổi thọ “xưa nay”… không có của Triệu Đà cùng với 2 lần xưng vương và sự vô lý về vị trí nước Tây Âu cho thấy, từ năm 207 TCN đến 137 TCN ít nhất phải có 2 nhân vật, cùng được gọi là Triệu Đà. Triệu Đà thứ nhất là người đã lãnh đạo nhân dân Việt kháng Tần, giành lại đất đai của người Việt mà Tần lập quận huyện trước đó vào năm Tần Nhị Thế thứ ba (207 TCN). Còn Triệu Đà thứ hai nổi lên sau sự kiện Lữ Hậu mất (180 TCN), “mua chuộc” Mân Việt và Tây Âu theo mình. Nói cách khác một Triệu Đà chống Tần, còn một Triệu Đà chống Hán.

Câu đối ở điện Long Hưng, Xuân Quan nơi thờ Triệu Vũ Đế:

一指已無秦萬里開先閩貉絶
两立何難漢億年倡始帝王基

Nhất chỉ dĩ vô Tần, vạn lý khai tiên Mân Lạc tuyệt
Lưỡng lập hà nan Hán, ức niên xương thủy đế vương cơ.


Dịch:

Một vùng vắng bóng Tần, vạn dặm mở ra vời xa Mân Lạc
Hai ngôi sánh cùng Hán, ngàn năm gây nền vững vàng đế vương.


Triệu Đà thứ hai là cháu Triệu Đà thứ nhất và có “mồ mả cha mẹ” ở phương Bắc đúng như Sử ký đã chép. Triệu Đà thứ hai có tên… Triệu Hồ, bởi vì Triệu Hồ không phải Triệu Văn Đế như sử vẫn chép. Chứng cứ rõ ràng là ngôi mộ vua Triệu mới phát hiện ở Quảng Đông vào những năm 1980. Trong mộ có ghi tên Triệu Mạt (hay Muội) và ấn vàng Văn đế hành tỉ (文帝行璽 ), nhưng lại còn có ấn vàng Thái tử (泰子). Như vậy người được chôn ở trong mộ là Văn Đế nước Nam Việt nhưng không phải Triệu Hồ vì Triệu Hồ là hàng cháu của Triệu Đà, không thể có chức Thái tử.

Với bằng chứng khảo cổ và minh văn phát hiện trong mộ Triệu Văn Đế ở Quảng Đông thế thứ nhà Triệu Nam Việt trở nên rành mạch:

– 207 TCN đến 180 TCN: Vũ Vương Triệu Đà
– 180 TCN đến 137 TCN: Vũ Đế Triệu Hồ
– 137 TCN đến 124 TCN: Văn Đế Triệu Muội
– 124 TCN đến 113 TCN: Minh Vương Triệu Anh Tề
– 113 TCN đến 112 TCN: Ai Vương Triệu Hưng
– 112 TCN đến 111 TCN: Vệ Dương Vương Triệu Kiến Đức.

“Nỗi oan” 121 tuổi, 70 năm trị vì của Triệu Đà nay coi như được giải với 2 đời vua Triệu Vũ Hoàng kế tiếp nhau. Nhưng còn những nỗi oan vì sự vô lý của các sử gia đối với sử Việt thì chắc phải chờ thời gian soi xét…

>> Tranh cãi lịch sử về tính chính danh của Triệu Đà và nhà Triệu
>> Không thể chối bỏ Triệu Đà và nước Nam Việt?
.
Theo BÁCH VIỆT TRÙNG CỬU
0

Một góc nhìn khác về Triệu Đà: Hóa giải những nỗi oan lịch sử

Nỗi oan thứ nhất: Triệu Đà là người phương Bắc. Nỗi oan thứ hai: Triệu Đà dẫn quân Tần xâm lược nước Việt. Nỗi oan thứ ba: Triệu Đà lừa lấy nỏ thần và diệt An Dương Vương…

0

Công bố quốc tế về giải trình tự gen người Việt gây bất ngờ

Nghiên cứu cho thấy sự độc lập về mặt di truyền phản ánh sức đề kháng rất cao của người Việt và khác xa hệ gene của người Hán, thông tin vừa được VnExpress đăng tải.


Các nhà nghiên cứu phát hiện 25 triệu biến dị sau khi giải trình tự gene ở người Kinh. Ảnh: DNAtix.

Công trình nghiên cứu về bộ gene người Việt do các nhà khoa học thuộc Viện nghiên cứu Vinmec về Công nghệ tế bào gốc và gene thực hiện vừa công bố trên tạp chí di truyền quốc tế Human mutation. Các phân tích gene của nhóm nghiên cứu cho thấy người Kinh và các dân tộc khác ở Đông Nam Á có cùng tổ tiên.

Kết quả từ các phân tích gene khác nhau đều thống nhất và củng cố giả thuyết người dân di cư từ châu Phi sang châu Á theo lộ trình từ phương Nam đến phương Bắc thay vì từ phương Bắc xuống Nam. Các dữ liệu cũng cho thấy người Kinh và người Thái có cấu trúc hệ gene tương tự nhau và quan hệ tiến hóa gần gũi.

Nhóm nghiên cứu đã lấy mẫu máu và giải trình tự toàn bộ hệ gene và vùng gene của 305 người Kinh, kết hợp với dữ liệu gene của 101 người đã công bố trước kia, phát hiện 25 triệu biến dị, trong đó hơn 99% biến dị có tần suất lặp lại trên 1%. Nghiên cứu cũng hé lộ một số lượng lớn biến dị gọi là đột biến bệnh lý và cho thấy sự độc lập về mặt di truyền phản ánh sức đề kháng rất cao của người Việt, khác xa hệ gene của người Hán. Điều này có ý nghĩa quan trọng, là cơ sở tham chiếu cho nhiều nghiên cứu Y - Sinh tiếp theo về sức khỏe người Việt có liên quan đến hệ gene.

Theo nhóm nghiên cứu, các biến dị cấu trúc trong dân số người Kinh tuy đóng vai trò thiết yếu trong nghiên cứu hệ gene nhưng đã không được thực hiện trong đề tài này. Lý do là các phương pháp tính toán hiện nay nhằm phát hiện biến dị cấu trúc từ dữ liệu giải trình tự bộ gene có tỷ lệ sai khá cao.

Do đó, các biến dị cấu trúc từ dữ liệu giải trình tự bộ gene có thể không đáng tin cậy. Các nhà nghiên cứu đang tìm hiểu những phương pháp khác như phép lai di truyền so sánh vi mô để xây dựng cơ sở dữ liệu biến dị cấu trúc cho người Kinh và dân cư Đông Nam Á.

Nguồn: VnE
0

Công bố quốc tế về giải trình tự gen người Việt gây bất ngờ

Nghiên cứu cho thấy sự độc lập về mặt di truyền phản ánh sức đề kháng rất cao của người Việt và khác xa hệ gene của người Hán, thông tin vừa được VnExpress đăng tải.


Các nhà nghiên cứu phát hiện 25 triệu biến dị sau khi giải trình tự gene ở người Kinh. Ảnh: DNAtix.
0

Cô dâu Việt thắng kiện cơ quan di trú Hàn Quốc

Tòa tối cao Hàn Quốc cho rằng cô dâu ngoại quốc được tiếp tục cư trú ở nước này nếu ly hôn chủ yếu do lỗi của người chồng.


Một khu phố ở Seoul năm 2017. Ảnh: SBS.

Ngày 10/7, tòa án tối cao Hàn Quốc ra phán quyết có lợi cho một phụ nữ Việt Nam 23 tuổi, người đã kiện cơ quan di trú Hàn Quốc vì họ từ chối cho phép cô tiếp tục ở lại sau khi ly hôn.

Cô này đến Hàn Quốc vào năm 2015 sau khi kết hôn với một người đàn ông Hàn Quốc. Cô bị buộc phải làm việc tại cửa hàng tiện lợi do mẹ chồng điều hành mà không được trả lương và từng bị sảy thai. Vợ chồng cô ly hôn vào năm 2016. Năm 2017, cô xin gia hạn tình trạng là người nhập cư qua hôn nhân nhưng bị cơ quan di trú Hàn Quốc từ chối.

Theo luật Kiểm soát Nhập cư Hàn Quốc, các cô dâu ngoại quốc chỉ có thể gia hạn cư trú nếu chồng chết hoặc mất tích, hoặc nếu họ có thể chứng minh rằng họ không chịu trách nhiệm cho sự đổ vỡ hôn nhân.

Tòa cấp thấp ra phán quyết bất lợi cho người phụ nữ Việt, nói rằng cô phải chịu trách nhiệm một phần cho vụ ly hôn. Tòa cho rằng để tiếp tục cư trú, cô dâu ngoại quốc phải chứng minh được ly hôn là hoàn toàn do lỗi của chồng.

Tuy nhiên, tòa án tối cao Hàn Quốc hôm nay nhận định rằng người nhập cư có thể tiếp tục cư trú sau khi ly hôn, miễn là vợ/chồng Hàn Quốc là bên chịu trách nhiệm "chủ yếu" cho việc ly hôn, thay vì "hoàn toàn" như lập luận của tòa cấp dưới.

Tòa tối cao giải thích rằng nếu áp dụng quyết định của tòa cấp thấp thì vợ/chồng ngoại quốc sẽ không bao giờ dám ly hôn, khiến cho bạn đời có thể lợi dụng quy định này để ngược đãi họ.

Phán quyết của tòa tối cao Hàn Quốc được coi là một bước tiến trong nỗ lực bảo vệ tốt hơn những người nhập cư qua hôn nhân, trong bối cảnh công chúng đang phẫn nộ về vụ cô dâu Việt ở huyện Yeonan, tỉnh Jeolla Nam ngày 4/7 bị chồng Hàn đánh gãy xương vì không nói tốt tiếng Hàn.

Người chồng bị cảnh sát bắt hôm 7/7. Cô dâu Việt bị bạo hành cho biết cô muốn ly hôn và được hưởng quyền nuôi con. Cô mong Đại sứ quán Việt Nam tại Hàn Quốc và các cơ quan sở tại hỗ trợ để được cư trú hợp pháp tại Hàn và có thể đưa mẹ đẻ sang Hàn Quốc trợ giúp trong thời gian khó khăn.

Nguồn: VnE
0

Cô dâu Việt thắng kiện cơ quan di trú Hàn Quốc

Tòa tối cao Hàn Quốc cho rằng cô dâu ngoại quốc được tiếp tục cư trú ở nước này nếu ly hôn chủ yếu do lỗi của người chồng.


Một khu phố ở Seoul năm 2017. Ảnh: SBS.
0

Ông Võ Văn Thưởng: Có một thế lực thứ ba cực kỳ nguy hiểm


Theo ý kiến của Ông Võ Văn Thưởng, thế lực thù địch thứ ba cực kỳ nguy hiểm chính những cán bộ, đảng viên bị suy thoái, biến chất trong nội bộ Đảng và cơ quan nhà nước cùng với những đối tượng phản động, chống đối; cơ hội chính trị bên ngoài. Nhóm thế lực thù địch thứ ba này đã tấn công gây ra không ích thiệt hại cho đất nước.
0

Ông Võ Văn Thưởng: Có một thế lực thứ ba cực kỳ nguy hiểm


Theo ý kiến của Ông Võ Văn Thưởng, thế lực thù địch thứ ba cực kỳ nguy hiểm chính những cán bộ, đảng viên bị suy thoái, biến chất trong nội bộ Đảng và cơ quan nhà nước cùng với những đối tượng phản động, chống đối; cơ hội chính trị bên ngoài. Nhóm thế lực thù địch thứ ba này đã tấn công gây ra không ích thiệt hại cho đất nước.
0